Hôm nay,  

Những Bước Tiên Phong và Thành Quả của Đại Học Huế từ năm 1957 đến 1975

13/07/201712:57:00(Xem: 5887)

Những Bước Tiên Phong và Thành Quả

 của Đại Học Huế từ năm 1957 đến 1975
 

Nguyễn Thanh Trang

  

Sáu mươi năm trước, Đại Học Huế đã ra đời do Nghị Định số 45-GD của Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban hành ngày 1-3-1957 và Linh Mục Cao Văn Luận là Viện Trưởng đầu tiên. Vào lúc đó hiệp định Geneve năm 1954 mới chia đôi nước ta chưa được ba năm. Chính quyền Miền Nam phải bận rộn đối phó với rất nhiều vấn đề từ an ninh đến tổ chức hành chánh, tư pháp và lập pháp, từ hạ tầng cơ sở đến các cơ quan trung ương. Thêm vào đó, phải tổ chức cuộc di cư và định cư cho một triệu đồng bào từ Bắc vào Nam tị nạn Cộng Sản. Trong bối cảnh vô cùng phức tạp và khó khăn đó, Đại Học Huế đã ra đời như một sách lược của chính phủ quyết tâm xây dựng Đại Học Huế để đào tạo nhiều nhân tài, góp phần bảo tồn văn hóa dân tộc và xây dựng một Miền Nam Tư Do được phồn thịnh trước hiểm họa Cộng Sản và văn hóa suy đồi tại Miền Bắc.

 

Tại Việt Nam, năm nay giới chức Đại Học Huế cũng đã tổ chức kỷ niệm 60 năm, nhưng họ cố lờ đi công lao của những người đã từng khai sáng và gây dựng nên cơ sở giáo dục quan trọng bậc nhất đó tại miền Trung, ngay cả Linh Mục Cao Văn Luận, vị Viện Trưởng sáng lập cũng không được nhắc tới. Khác vời người Cộng sản, hôm nay chúng ta kỷ niệm 60 năm Đại Học Huế trong tinh thần uống nước nhớ nguồn, tri ân Thầy Cô và trân quý tình đồng môn. Vì vậy, hôm nay nhân dịp kỷ niệm 60 ngày thành lập Đại Học Huế, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại những bước tiên phong và thành quả rất đáng khích lệ mà Đại Học Huế đã đạt được trong thời gian18 năm đầu ngắn ngũi, từ 1957 đến 1975.

 

Trước hết và quan trọng nhất, Đại Học Huế là đại học đầu tiên do người Việt Nam thành lập. Không những thế, đó là đại học đã tiên phong xử dụng tiếng Việt để giảng dạy. Trong khi đó, Đại học Sài Gòn, hậu thân của Đại Học Hà Nội do Pháp dựng lên nên chỉ có trường Luật gảng dạy bằng tiếng Việt, còn các phân khoa khác vẫn còn gặp nhiều khó khăn nên phải xử dụng nửa Việt nửa Pháp.

 

Từ tháng 2-1958, Đại Học Huế đã xuất bản tạp chí Đại Học, cơ quan ngôn luận và nghiên cứu với sự cộng tác thường xuyên của nhiều giáo sư và trí thức tại Huế cũng như các nơi khác tại quộc nội và hải ngoại. Đó là tạp chí cấp đại học đầu tiên tại Việt Nam.  

 

Đại Học Huế là Viện Đại Học duy nhất tại Miền Nam có nhà in và nhà xuất bản riêng. Nhờ vậy, việc in ấn và xuất bản các tác phẩm và sách báo của Viện thuận tiện và ít tốn kém hơn các đại học khác.

 

Viện Hán Học đã được thành lập do nghị định số 389-GD của Tổng Thống ban hành ngày 8-10-1959 trực thuộc Đại Học Huế, nhằm đào tạo các chuyên viên Hán văn và chữ Nôm để phục vụ nhu cầu tại vài cơ quan chính phủ, đồng thời để giảng dạy, nghiên cứu và dịch thuật kho tài liệu cổ văn bằng chữ Hán và chữ Nôm. Đây là một kế hoạch quan trọng nhằm bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc. Việc làm nầy đã đi trước giới đại học tại Miền Bắc trên 30 năm.  

 

Ngoài sứ mạng giáo dục, Đại Học Huế còn là một định chế bảo tồn và phát huy văn hóa qua việc thành lập Ủy Ban Phiên dịch Sử liệu. Ủy Ban đã quy tụ được nhiều học giả lỗi lạc của hai ngành Hán văn và Sử học. Dự án quan trọng đầu tiên là sắp xếp lại để làm mục lục và phiên dịch châu bản triều Nguyễn từ Hán tự sang Việt ngữ. Tiếp đến là nỗ lực phiên dịch tài liệu Hải Ngoại Ký Sự của Thích Đại Sán và bộ An Nam Chí Lược của Lê Tắc.

 

Từ năm 1957, Đại Học Huế đã từng bước cải tiến Học Trình và Phương pháp Giảng Dạy, điễn hình nhất là các nỗ lực sau đây:

 

Tại Đại Học Khoa Học, năm 1957, môn Tân Đại Số đã được giảng dạy lần đầu tiên trong chương trình Cử Nhân Toán. Năm 1969, chương trình Cử Nhân Khoa Học Ứng Dụng ra đời gồm các ngành Tạo Tác. Thủy Lợi Sinh Hóa. Năm 1971, chương trình Cao Học Thống Kê và Nhân Chủng Học được tiên phong tổ chức tại Việt Nam.

 

Tại Đại Học Sư Phạm, năm 1965 trường Trung Học Kiểu Mẫu đã được tiên phong thành lập tại Việt Nam để trắc nghiệm và thực hành các phương pháp sư phạm tân tiến và hữu hiệu để giảng dạy tại bậc Trung học.

 

Tại Đại Học Luật Khoa, từ năm 1966 nhiều môn học mới đã được đưa vào chương trình Cử Nhân Luật 4 Năm, gồm có: Cổ Luật Việt Nam, Pháp Y Học, Phiên Tòa Giả Định, Báo Chí Học, Kỷ Thuật Ngân Hàng, Quản Trị Xí Nghiệp, Kế Toán và Doanh Thương. Trường Luật cũng thiết lập Hệ Thống Văn Khố Âm Thanh để các sinh viên vắng mặt vì nghề nghiệp cũng như các sinh viên có mặt nhưng chưa hiểu rõ có thể nghe lại các bài giảng của giáo sư.

 

Tại Đại Học Y Khoa, hai ngành Y Tế Cộng Đồng và Y Khoa cổ truyền đã được đưa vào học trình để đào tạo các bác sĩ chuyên khoa đa năng và dồi dào kiến thức chữa trị bệnh nhân theo cả hai truyền thống Tây Y và Đông Y.

 

Năm 1970, chương trình liên khoa lần đầu tiên được thiết lập tại một Đại Học Việt Nam nhằm mục đích mở mang kiến thức của sinh viên qua nhiều bộ môn khác nhau và tạo cơ hội cho sinh viên của các phân khoa có dịp học tập chung để có thể quen biết nhau, nhờ đó hun đúc tinh thần đoàn kết tập thể.

 

Sau ngày phái đoàn Đại Học Huế viếng thăm Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt năm 1971, vì nhận thấy Thư Viện đầy đủ sách báo chuyên môn và các phòng thí nghiệm trang bi máy móc tối tân, cũng như chương trình giảng dạy và đặc biệt thành phần ban giảng huấn có bằng cấp và học vị chẳng khác gì các đại học dân sự, vì thế Đại Học Huế đã tiên phong đề nghị Bộ Giáo Dục thừa nhận văn bằng tốt nghiệp Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, chương trình 4 năm, có giá trị tương đương với Cử Nhân Khoa Học Ứng Dụng. Đề nghị nầy đã được Bộ Giáo Dục chuẩn thuận năm 1972, nâng cao giá trị của Trường Võ Bị Đà Lạt tương tự như trường West Point của Mỹ.

 

Năm 1971, Đại Học Huế bắt đầu thực hiện việc Ghi danh và ghi điểm các môn thi bằng điện toán và năm 1972, tiên phong áp dụng giảng dạy theo tín chỉ.

 

Tóm lại, Đại Học Huế đã ra đời trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn vì chiến tranh tang tóc và thiếu thốn mọi bề, nhưng nhờ sự quyết tâm và tài lãnh đạo của Linh Mục Viện Trưởng Cao văn Luận và các vị Viện Trưởng kế tiếp, chỉ trong vòng 18 năm đầu ngắn ngũi, Đại Học Huế đã tiên phong thực hiện nhiều cải cách tiến bộ và đã đào tạo được hàng trăm Luật Sư, Cử nhân Khoa Học, Cử nhân Văn Khoa, 1,256 Giáo sư trung học và khoảng 400 Bác Sĩ Y Khoa. Lực lượng chuyên viên trẻ trung và đầy nhiệt huyết đó đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển và hưng thịnh của Việt Nam Cộng Hòa hơn hẵn Miền Bắc dưới chế độ Cộng Sản độc tài phi nhân trước khi Miền Nam Tự Do đã bị nhuộm đỏ năm 1975.

 

Nguyễn Thanh Trang

San Jose, California

(Ngày 9-7-2017)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
Đến giữa tháng 3 năm nay, hầu hết chúng ta đều thấy rõ, Donald Trump sẽ là ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng Hòa và Joe Biden là ứng cử viên tổng thống của Democrat. Ngoại trừ vấn đề đột ngột về sức khỏe hoặc tử vong, có lẽ sẽ không có thay đổi ngôi vị của hai ứng cử viên này. Hai lão ông suýt soát tuổi đời, cả hai bộ não đang đà thối hóa, cả hai khả năng quyết định đều đáng nghi ngờ. Hoa Kỳ nổi tiếng là đất nước của những người trẻ, đang phải chọn lựa một trong hai lão ông làm người lãnh đạo, chẳng phải là điều thiếu phù hợp hay sao? Trong lẽ bình thường để bù đắp sức nặng của tuổi tác, con đường đua tranh vào Tòa Bạch Ốc, cần phải có hai vị ứng cử viên phó tổng thống trẻ tuổi, được đa số ủng hộ, vì cơ hội khá lớn phải thay thế tổng thống trong nhiệm kỳ có thể xảy ra. Hơn nữa, sẽ là ứng cử viên tổng thống sau khi lão ông hết thời hạn bốn năm. Vị trí và vai trò của nhân vật phó này sẽ vô cùng quan trọng trong lần tranh cử 2024.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.