HOÀNG PHẠM TRÂN
(1904 - 1949)
Hoàng Phạm Trân, bút danh Nhượng Tống, quê huyện Ý Yên, Nam Định. Thân sinh là Tú tài Hoàng Hồ nổi tiếng chống Pháp, nên ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động chính trị của ông sau này. Nhượng Tống thông thạo chữ: Việt, Nho và Pháp. Ông đã viết cho các báo: Khai Hóa, Nam Thành, Thực nghiệp Dân báo, Hồn Cách Mạng, Hà Nội Tân văn...
Cuối năm 1925, ông cùng với Phạm Tuấn Lâm và Phạm Tuấn Tài thành lập Nam Đồng Thư xã ở bên bờ hồ Trúc Bạch, Hà Nội, chuyên trước tác, dịch thuật và xuất bản các sách với mục đích nhen nhúm tinh thần ái quốc, như: Cách Mạng Thế giới, Nguyên Tắc Tam Dân v.v...
Năm 1927, Nguyễn Thái Học tham gia Nam Đồng thư xã và thành lập chi bộ để tiến tới thành một đảng cách mạng. Ngày 25-12-1927, Nhượng Tống cùng với các chiến hữu thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) tại làng Thể Giao, Hà Nội.
Năm 1929, Nhượng Tống vào Huế gặp Phan Bội Châu, trên đường trở về nhà thì bị Pháp bắt rồi đày ra Côn Đảo. Trong thời gian ông ở Côn Đảo, thì VNQDĐ tổ chức cuộc tổng khởi nghĩa Yên Bái (1930), nhưng thất bại. Đến năm 1936, ông mới được thả nhưng bị quản thúc tại quê nhà.
Tháng 12 năm 1945, các đảng phái Quốc gia: Việt Nam Quốc dân đảng, Đại Việt Dân chính đảng, Đại Việt quốc dân đảng, liên minh thành Mặt trận Quốc dân đảng Việt Nam.
Cuối năm 1946, Pháp tái chiếm Đông Dương. Đến năm 1947, hết thời gian quản thúc, Nhượng Tống trở về Hà Nội để cùng một số chiến hữu tái tổ chức hoạt động VNQDĐ, tại một số vùng do quân Pháp kiểm soát.
Ngày 17-2-1947, VNQDĐ tham gia Mặt trận Quốc gia Thống nhất toàn quốc, chống lại Việt Minh và ủng hộ giải pháp Bảo Đại để thành lập chính quyền Quốc gia Việt Nam. Đến năm 1949, ông hành nghề thầy thuốc Bắc tại số 128 phố Chợ Hôm, Hà Nội.
Ngày 20-8-1949, ông bị công an mật của Việt Minh ám sát tại Hà Nội, vì ông đã viết báo nêu đích danh Hồ Chí Minh là kẻ bán đứng cụ Phan Bội Châu cho Pháp tại Thượng Hải, nước Tàu.
Nhượng Tống là một nhà cách mạng chống Pháp bền bỉ, còn là một nhà văn nhà thơ và nhà dịch thuật uyên bác.
- Sáng tác: Lan Hữu (1940, tiểu thuyết); Nguyễn Thái Học (1945, hồi ký) và một số bài thơ.
- Dịch thuật: Nam Hoa kinh và Đạo đức kinh của Lão Tử (1944-1945); Sử ký của Tư Mã Thiên (1944); Hồng lâu mộng của Đào Tuyết Cần (1945); Thơ của Đỗ Phủ (1945)...
Bài thơ: “Cảm Đề Lịch Sử”(*) của Nhượng Tống, ông đã nghiền ngẫm, lo lắng cho quê hương vô cùng thống thiết:
Ba xứ non sông một giải liền
Máu đào, xương trắng điểm tô nên
Cơ trời dù đổi trò tang hải
Mặt đất chưa tàn nghiệp tổ tiên!
Có nước, có dân đừng rẻ rúng
Muốn còn, muốn sống phải đua chen
Giật mình nhớ chuyện nghìn năm cũ
Chiêm-Lạp xưa kia vốn chẳng hèn?!!!
Cảm phục: Nhượng Tống
Nhượng Tống, tâm can vẹn sắt son!
Lo toan chống Pháp, giữ giang sơn
Văn thơ, nghiền ngẫm gìn non nước
Nhiệt huyết quốc gia, mặc mất còn!
Nguyễn Lộc Yên
__________
(*)- Kính họa bài thơ “Cảm Đề Lịch Sử” của Nhượng Tống:
Nước Việt giang sơn một giải liền
Máu xương bảo vệ, điểm tô nên!
Tiền nhân lo lắng tình nòi giống
Hậu thế noi gương nghĩa tổ tiên
Đất nước tiêu điều, mau chấn chỉnh
Toàn cầu tân tiến, sớm đua chen?!
Mưu mô Đại Hán luôn rình rập
Gìn giữ thổ cương, chớ có hèn?!
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn