HUỲNH THÚC KHÁNG
(1876 - 1947)
Huỳnh (Hoàng) Thúc Kháng quê Quảng Nam, tên lúc trẻ là Huỳnh Hanh, tự Giới Sanh, hiệu Minh Viên. Năm 1900 ông đỗ Giải nguyên, năm 1904 đỗ Tiến sĩ.
Ông với Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Trần Quí Cáp là những nhân vật chủ chốt của phong trào Duy tân, vì vậy năm 1908, bị Pháp bắt đày Côn Đảo, đến năm 1921 được thả về (bị tù 13 năm).
Năm 1926, ông làm Viện trưởng viện Dân biểu Trung kỳ, luôn tranh đấu cho quyền lợi đất nước, không theo sự mong muốn của Jabouille là Khâm sứ Pháp, vì vậy những sự đề đạt của ông không được đáp ứng nên ông từ chức.
Năm 1927, ông lập tờ báo Tiếng Dân ở Huế, ông làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, mỗi tuần xuất bản 2 lần, được đông đảo Đồng bào hưởng ứng. Ông đã khẳng khái tuyên bố trên diễn đàn Tiếng Dân: “Tôi là nhà cách mạng công khai, tôi đấu tranh cho quyền lợi dân tộc một nước Việt Nam, một cách công khai. Vì đất nước có biên cương và lãnh thổ công khai trên bản đồ thế giới. Cho nên tôi cũng công khai nói lên tiếng nói người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, độc lập, tự do và tự chủ. Do đó tôi thách đố mọi trừng phạt và hiểm nguy đến với cá nhân tôi”. Tờ báo Tiếng Dân là báo tranh đấu nên Pháp đã bắt buộc đình bản năm 1943.
Đời ông luôn đấu tranh cho tự do và độc lập của tổ quốc nhưng vào năm 1945, ông đã lầm lỡ làm Bộ trưởng Nội vụ cho Chính phủ Liên hiệp lâm thời của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và làm Quyền Chủ tịch nước (1946) khi Hồ Chí Minh sang Pháp đàm phán, có lẽ ông ân hận suốt đời!.
Ngày 21-4-1947, ông bị bệnh qua đời.
Những tác phẩm chính của ông: Lịch sử Phan Tây Hồ Tiên sinh. Thơ văn và thời đại. Bức thư gởi Cường Để. Thi tù tùng thoại...
Cảm miệm: Huỳnh Thúc Kháng
Huỳnh Thúc Kháng, lo lắng nước nhà!
Quyết tâm chống Pháp, mới xông pha
Giống nòi hạnh phúc, luôn mong mỏi
Lầm lỡ Việt Minh, luống xót xa?!
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn