Tuồng Phụng Kiều - Lý Đán 鳯嬌李旦 in ra lưu thế đã được 115 năm rồi. Thời gian được viết ra phải là trước nữa. Hơn một thế kỷ, bao nhiêu biến thiên của cuộc đời, bao nhiêu thay đổi trong văn chương, bao nhiêu là quan cảm mới trong sự thưởng ngoạn. Nhân vật hoàng tử đã đi ra ngoài câu chuyện, thế vào là một người bình thường nào đó lắm khi còn không cần cả một cái tên. Vị quan to, ông vua già, cái ngai vàng mục nát cũng đã đi ra khỏi bối cảnh của những gì nhà văn viết ra cả hơn nửa thế kỷ nay rồi. Sự tranh chấp về quyền lực dưới danh nghĩa chánh thống và tiếm quyền của hai dòng họ, cũng là những điều gì xa lạ với quần chúng – ngoài các tuồng cải lương hay những bộ phim tràng giang đại hải du nhập từ phương Bắc. Càng xa lạ hơn nữa là cách nói nửa Hán nửa Việt trong tuồng. Càng gây ngạc nhiên là nhân vật nói về mình, than vãn hay diễn tả một điều về cảm xúc, về nội tâm lại được nói ra bằng những câu thuần Hán. Tác giả tuồng không viết về hành động, không mô tả cử chỉ của bất cứ nhân vật nào mà gói ghém hành động và cử chỉ bằng lời nói của chính nhơn vật đó hay một nhân vật khác. Tuồng là như vậy. Đó là sản phẩm của thời đại nó ra đời, thời đại đó tuồng đã làm vui thính chúng và khán giả lúc đó. Tuồng nói chung đã cung cấp cho họ khoái cảm thưởng ngoạn nghệ thuật để làm tròn vai trò văn hóa của mình. Ta lạ lẫm với tuồng vì thời gian xa cách giữa ta và tuồng quá lớn, và vì như đã nói, tuồng đã xong vai trò và bây giờ nó đang tan biến dầu bất cứ sự cố gắng vực dậy nào. Cũng vậy, những điều nhà văn viết hôm nay thế kỷ sau người đọc sẽ thấy có rất nhiều điều xa lạ. Tuy nhiên lẫn trong những lạ lẫm đó có một cái không đổi là tâm hồn của con người hay là tâm hồn chung của nhân loại mà thời nào cũng có. Đọc tác phẩm của văn hào Geoffrey Chaucer, Câu Chuyện Khi Đi Đến Thành Canterbury, Canterbury Tales, viết cách nay hơn sáu trăm năm ở nước Anh xa xôi ta vẫn thấy hình ảnh con người với những ham muốn, lừa đảo, ngoại tình, thái độ của vợ đối với chồng, không khác với bất kỳ xã hội nào hiện giờ. Cũng vậy, tuồng có biết bao nhiêu là điều giống ta hôm nay. Đừng chú ý đến hình ảnh hay danh xưng ông vua, vị hoàng tử, cô công chúa, bà hoàng hậu, bà thứ phi, nàng quận chúa, ông thừa tướng, ngài quan văn, bậc quan võ, viên thái giám, nàng cung nữ… mà cứ coi đó là những người bình thường như chúng ta trong xã hội nầy ta sẽ thấy được cái tâm lý hằng cữu của con người qua họ. Những ham muốn, đố kỵ, tính toán, tranh danh đoạt lợi, ghét ghen, thương cảm, yêu đương, tình bạn hữu, tình cha con, nghĩa vợ chồng… không thiếu gì hết.
CẢNH HAI
(Cảm tiếng đàn Phụng Kiều, Tiến Hưng tìm xem mặt ngọc)
An Nhơn, than:
Vạn đoạn tư lương vạn đoạn trường,
Phu thê nam bắc các phân phương.
Ngũ canh ỷ trượng sầu nan giải,
Nhứt phiến thanh quang oán túc hương[1].
Lại nói:
Thiếp Văn thị An Nhơn,
Nãi Hồ Đăng chánh thất.
Như tôi:
Bốn đức trau dồi chẳng mỏi,
Năm tuần tác đã tri thiên.
Tuy không trai nối nghiệp tổ tiên,
Sanh chút gái Phụng Kiều là hiệu[2].
Như con tôi:
Hình dung yểu điệu,
Thể độ đoan cung[3].
Cầm kỳ thi họa làu thông,
Võ nghệ văn chương đủ biết[4].
Tiến Hưng!
Quê nhà ở phương nào khá thốt,
Tới ở đây quần áo lang thang.
Khá bày tỏ nguồn cơn,
Cho ta tường bao nả[5].
Tiến Hưng:
Như tôi:
Thông Châu thành quê ở,
Mã Ẩn ấy tên tôi.
Cha mẹ đà sớm cách vừa đôi,
Đường khang[6] lại đơn sơ có một.
Nhơn bị đao binh viễn đột,
Khiến nên lưu lạc tha phương.
Nhìn bốn bề không chốn náu nương,
May lại gặp ân gia thâu dưỡng[7].
An Nhơn:
Thấy nói tấm lòng (PKLĐ_4a) cảm động,
Nghe rằng tấc dạ chạnh than.
Nè! Áo cừu này cho gã ngự hàn,
Kẻo rách rưới lõa lồ thân thể thôi!
Trà bôi xem tử tế,
Đem dưng trước tiền đường[8].
Lại nói:
Con!
Mẹ thấy Tiến Hưng cam khổ khá thương,
Chạnh tấc dạ càng thêm bát ngát[9].
Mẹ coi Tiến Hưng này:
Chẳng phải người thất lạc,
Như dường kẻ trâm anh.
Hình dung mục tú mi thanh,
Còn: ngôn ngữ lễ nghi pháp độ.
Thấy nhà gã chịu bề cam khổ,
Động lòng này nên mẹ khá thương chớ!
Từ mẹ con ta đem mười lạng bạc cho chú thiếm con, mà ở đây. Trong ý mẹ tưởng:
Phượng phi kim nhựt phô hòa khí,
Long xuất thâm đàm lộ trảo nha đó mà thôi[10].
Bất hạnh trung bất hạnh hựu gia,
Tân khổ đã thập phần tân khổ mà thôi.
Dễ ngui lòng mẹ,
Thêm thảm dạ này.
Giờ bát dĩa mâm bàn dọn dẹp đã xong rồi[11], giờ hãy còn .
Con! Đem đàn cầm gảy ít khúc này,
Đặng cho mẹ giải chưng sầu nọ[12].
Phụng Kiều:
Dạ! Vưng lời[13] từ mẫu,
Thủ lộng kim thanh.
Tiếng đàn:
Liệu lượng hề phá thiên sầu[14],
Cầm vận tương hề, lệ nan thâu.
Thảm não bách ban hề, hà nhựt giải,
Khổ (PKLĐ_4b) tân thiên vạn hề, lệ du du[15].
Tiến Hưng:
Nay, tại sài phòng phong tĩnh thính xu, tiếng đàn ai đàn hay thiệt,
Chẳng biết thử xuất tại thùy nhơn diệu thủ kìa?
Ờ ờ! Quả thị trù phòng môn thủ,
Có khi tiểu thơ đàn xuất mỹ thiên.
Chi nữa!
Kíp lén tới phòng bên,
Đặng coi tường cử chỉ a!
Lại nói:
Chính thị, chính thị!
Bất sai, bất sai!
Như người này là:
Quả tiên gia thần nữ tái lai,
Chơn Mạnh thị Tây Thi phục xuất thôi!
Ngọc thủ đê thùy đệ nhứt,
Giai nhơn tuyệt thế vô song.
Như người này, mỗ may dù vận đặng hạnh thông,
Người ấy đáng giúp trong nội trợ mới ưng trong bụng ta thôi!
Mấy khúc khiến nên thương nhớ,
Đòi vần thôi lại đoạn trường quyết đi!
Âu là: Kíp vào tới trung đường,
Cho hản tường tấc dạ a! [16]
An Nhơn:
Tiến Hưng!
Vậy chớ:
Thâm canh tĩnh dạ.
Ta hỏi:
Đáo thử hà vi?
Khá bày tỏ lời kia,
Cho ta tường lẽ nọ thử!
Tiến Hưng:
Dạ! Cúi đầu dám tỏ, dám tỏ!
Tạn mặt xin thưa, xin thưa ẻ![17]
Hát khách:
Tĩnh dạ tài văn vận du dương,
Sử ngu tâm nội động tình thương.
Trắc nhĩ tế (PKLĐ_5a) văn, đả động ngã ưu sầu chi huống.
Bởi vậy cho nên tôi:
Khuy lai đạo thính,
Thôi xuất ngu thê thảm đoạn trường![18]
Lại nói:
Dạ thưa!
Tiểu thơ hà đàn xuất thử chương,
An Nhơn khá tố trần kỳ ý[19] thử nào?
An Nhơn:
Nễ dục tường áo lý,
Nghi thính ngã thuyết minh cho mà nghe.
Hát khách:
Tích ngã tiên công tài nhựt thăng,
Thùy tri nhứt đán chí sơn băng?
Bởi vậy nên ta còn mười lượng bạc đem qua mà giao cho chú thím đặng mà nhờ. Ai ngờ là[20]:
Cốt nhục chí thân, bất tưởng thân sơ đồng thảo giái[21],
Tiền tài vi trọng, thùy tri bần giả diệc bàng nhơn[22]!
Lại nói:
Bởi vậy cho nên ta buồn lắm, mới:
Sử ái nhi đàn xuất kỷ thiên,
Đặng giải ngã tâm trung phiền não đó mà!
Ngươi nghe tiếng đàn mà ngươi biết đặng ý ta làm vậy,
Ký ngộ tri âm chơn tối hảo,
Thời ngươi phải đàn lai kỷ khúc cho tận tình thử[23]!
Tiến Hưng:
Thưa!
Phận hèn dễ dám khoe mình,
Tuân lịnh tôi xin ra sức.
Tiếng đàn:
Phong viễn tống hề, lưu thủy thú,
Sài phòng từ nhập hề, bội thương tình.
Hạnh thất thâm ngâm hề, trường đoạn thán,
Nhứt khúc dương xuân hề, hoa mãn thành[24].
Lại nói:
(PKLĐ_5b) Nay lâu trung cổ dĩ thâm canh,
Đa tạ trù phòng tôi lui gót[25].
[1] Lời than của nhân vật, luôn luôn buồn, tử biệt với chồng, đêm không ngủ được, chống gậy mà tê tái lòng.
[2] Giới thiệu về mình, đức hạnh, tuổi tác, gia cảnh.
[3]Đoan cung 端恭: Đoan chánh 端政.
[4] Cô nầy biết võ nghệ lại giỏi cầm kỳ…cũng là cách giới thiệu về mình, về nhân vật cận kề mình…
[5] Thấy Tiến Hưng mới vô làm rách rưới nên hỏi.
[6] Đường khang 堂槺: Anh em.
[7] Tiến Hưng trả lời cũng là dấu diếm thân phận. Đường khang堂槺: anh em.
[8] Cho áo lạnh và dạy cách ăn ở làm việc ở đây.
[9] Chú ý, từ xưa bát ngát 叭 口歹nghĩa là buồn bã. Về sau người ta hiểu lầm bát ngát là rộng, từ đó mới có nghĩa thứ hai nầy dùng tới ngày nay. Kiều: Bốn bề bát ngát xa trông: Buồn trông ra xa bốn bề…
[10] Chim phượng bay thì lộ ra sự hòa khí, còn rồng ra khỏi đầm thì phô ra móng vuốt. Ý nói mọi sự rồi thì cũng rõ ràng, xấu tốt sẽ thấy, quí nhân bần tiện sẽ lộ ra.
[11] Chữ rồi bản Nôm viết lai, nhiều lần như vậy. Nhiều tác phẩm Miền
[12] Kêu con đờn cho mình giải buồn.
[13] Bản Nôm khắc lầm thành mà.
[14] Tiếng đàn du dương lãnh lót phá tan sự sầu thảm. Liệu lượng嘹喨: du dương.
[15] Tiếng đàn rất buồn thảm, làm rơi nưóc mắt.
[16] Nghe tiếng đàn, thấy người đẹp quá, nghĩ rằng xứng đáng làm vợ mình, nhứt định vào gặp mặt để được thỏa lòng.
[17] Bị chất vấn và xin trả lời.
[18] Đêm vắng mới nghe tiếng đàn khiến tôi lắng tai nghe cho rõ ràng hơn thì động mối thưong tâm về trạng huống của mình, cho nên tôi trộm tới đây trộm nghe rõ…
[19] Hỏi cho biết tại sao cô ta đàn bài đó. Câu hỏi cũng gián tiếp nói mình thấy hiểu tiếng đàn buồn.
[20] Chồng ta chết, ta đem 10 lượng vàng đến đề nương nhờ chú nó. Ai ngờ là…
[21] Cốt nhục tình thâm. Họ bất tưởng thân sơ, coi như thảo giái (cỏ mọn).
[22] Tiền tài là trọng ai mà tưởng được chuyện nhà nghèo thì kể như người ngoài, coi như chẳng thân thích ruột thịt.
[23] Nhà ngươi nghe tiếng đàn mà biết ý ta thì đàn vài bản
[24] Ý nghĩa tiếng đàn: Tiến Hưng nói mình là người lư lạc từ xa đến đây. Nghe tiếng đàn từ căn nhà nầy mà xuất phát nên tình thương vô hạn. xin đờn một bản đàn vui tươi của mùa xuân với đầy hoa nở. Yiên Hưng gian tiêép nói mình và gia đình nầy ở trogn cảnh ngộ không vui nhưng rồi sẽ hêt: Trời lại sáng…
[25] Chàng đàn xong thì xin lui gót, không la lết cớ rằng trống đã điểm canh tuy rằng rất thích người đẹp Phụng Ki ều. Cái hay là ở chỗ đó.
Cảnh hai nầy bày ra sự tương cảm của Tiến Hưng với người đẹp tài hoa Phụng Kiều qua tiếng đàn.