Hôm nay,  

Sách mới: Câu chuyện người lính VNCH

29/04/201700:58:36(Xem: 8617)
Sách mới: Câu chuyện người lính VNCH
 
Bùi Văn Phú

 

Người lính Việt Nam Cộng hòa đã chiến đấu như thế nào trong 20 năm bảo vệ miền Nam? Và sau ngày 30/4/1975, khi miền Nam đầu hàng miền Bắc thì số phận của họ và gia đình ra sao?

 

Câu trả lời có thể tìm thấy trong tác phẩm “South Vietnamese Soldiers: Memories of the Vietnam War and After” của Phó Giáo sư Nathalie Huỳnh Châu Nguyễn, Đại học Monash, Úc [Nxb Praeger 2016, 289 trang].

 

 blank

H01: Cựu Trung úy Phạm Văn Chương trên bìa sách viết về người lính Việt Nam Cộng hòa của Nathalie Huỳnh Châu Nguyễn. (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 

Đây là câu chuyện của khoảng 40 cựu chiến binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa qua sử ký truyền khẩu (oral history) mà tác giả đã ghi lại, biên soạn rồi tổng hợp và phân tích. Nhiều câu chuyện không chỉ được nghe kể mà đã được viết bằng tiếng Việt và dịch ra Anh ngữ. Tác giả cũng còn sử dụng nhiều tài liệu từ những đặc san tiếng Việt của các quân binh chủng.

 

Đó là những câu chuyện về đời lính, về lý tưởng phục vụ tổ quốc, về tình đồng đội, về hệ lụy phủ xuống cuộc đời những người lính miền Nam sau ngày 30/4/1975 và về tương lai của họ nơi đất Úc.

 

Tất cả từng là những chiến binh, người lớn tuổi nhất sinh năm 1917 đã tham dự ba cuộc chiến và trẻ nhất sinh năm 1955 mới vào quân ngũ đôi năm.

 

Họ phục vụ trong nhiều binh chủng từ Thủy quân Lục chiến, Nhảy dù, Biệt Động quân, Không quân, Hải quân, Quân y cho đến Thiết giáp, Tiếp vận, Địa Phương quân, Nữ Quân nhân. Họ không phải là những lãnh đạo hay chỉ huy cao cấp của mà chỉ là những sĩ quan cấp úy, cấp tá. Họ là phi công trực thăng, là tiểu đoàn trưởng, y sĩ tiền tuyến hay cao nhất là chỉ huy trưởng của Đại học Chiến tranh Chính trị.

 

Câu chuyện đã khơi nguồn cho tác giả tìm hiểu về người lính miền Nam là từ Trung úy Phạm Văn Chương, tốt nghiệp cử nhân luật, nhập ngũ năm 1969. Sau thời gian thụ huấn tại quân trường, ông giữ chức vụ sĩ quan hành chánh, tài chánh cho Tiểu đoàn 7 Biệt Động quân.

 

Sau tháng Tư 1975 ông bị bắt đi học tập cải tạo cho đến năm 1979 thì được thả về. Sống không hộ khẩu, bị coi như công dân hạng hai trong một đất nước đã hòa bình, thống nhất, năm 1983 ông vượt biển cùng với một người con trai.

 

Cuộc đời binh nghiệp của Trung úy Chương, và những chiến sĩ khác, được nhắc đến với mục đích bổ sung cho khoảng trống trong các nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam mà đến nay còn thiếu vắng tiếng nói từ những người lính Việt Nam Cộng hòa.

 

 blank

H02: Phó Giáo sư Nathalie Huỳnh Châu Nguyễn, bên phải, trong buổi giới thiệu tác phẩm ở Đại học U.C. Davis, California, 10/2016, cùng tác phẩm Black April của George J. Veith và Nationalist in the Viet Nam Wars của Nguyễn Công Luận. (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 

 

Còn có hàng nghìn, có thể nói hàng chục nghìn, câu chuyện như của Trung úy Chương mà đến nay chưa được ghi lại nhiều bằng Anh ngữ, hay ngoại ngữ, dù trong mảng thông tin Việt ngữ ở hải ngoại đã có rất nhiều câu chuyện như thế được viết lại trên báo, trong các tạp chí, đặc san.

 

Viết về người lính Việt Nam Cộng hòa đến nay mới có một vài tác phẩm Anh ngữ như “Black April” của George J. Veith, “Nationalist in the Viet Nam Wars” của Nguyễn Công Luận.

 

Tiếng Việt có “Tháng Ba gãy súng” của Cao Xuân Huy, “Cơn uất Hạ Lào” của Bùi Đức Lạc, “Nhớ về người lính năm xưa” của Đoàn Phương Hải.

 

Trong thời chiến, làm trai phải đáp lời sông núi. Đó là câu chuyện của Nguyễn Viết Huy, được sinh ra trong một căn cứ quân sự vì có bố là sĩ quan phục vụ đất nước từ ngày Quân đội Quốc gia được khai sinh. Anh của Huy là lính Nhảy dù còn Huy là sĩ quan Địa Phương quân. Khi chiến tranh chấm dứt thì bố, dù đã giải ngũ với cấp bậc thiếu tá, vẫn phải đi học tập cải tạo cùng với con.

 

Với sứ mệnh bảo vệ tổ quốc, người lính Việt Nam Cộng hòa thường xuyên đối diện với cái chết. Thiếu úy Văn Tấn Thanh tham gia mặt trận Quảng Trị mùa hè 1972 và đã chứng kiến cảnh đồng đội cùng đơn vị Thủy quân Lục chiến chết vì đạn pháo trên Đại lộ Kinh hoàng.

 

Trung úy Phạm Văn Chương nhớ mãi cảnh đưa xác người bạn thân cùng đơn vị tử trận từ chiến trường về cho vợ và con thơ của bạn, trên một chuyến bay có cả trăm quan tài lính. Đó là một trải nghiệm rất đau buồn trong đời ông.

 

Qua chuyện kể của những sĩ quan, hầu hết là cấp úy, cho thấy đa số có học lực tú tài. Nhiều người đang đại học luật hay đại học khoa học thì tổng tấn công Mậu Thân 1968 hay Mùa hè Đỏ lửa 1972 xảy đến nên phải xếp bút nghiên theo nghiệp đao binh.

 

Nguyễn Văn Luyện sinh năm 1952, cựu học sinh Pétrus Ký. Năm 1972 đang học luật năm thứ hai thì bị động viên vào Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức cùng với một người anh. Sau khóa huấn luyện người anh được biệt phái về dạy học còn Luyện gia nhập binh chủng Thiết giáp. Gia đình Luyện có bốn anh em là lính tác chiến.

 

Về đơn vị một thời gian, trong một lần đụng độ với địch quân, Luyện trúng đạn AK-47 làm thủng ruột, được đưa về Tổng y viện Cộng hòa điều trị trong nhiều tháng. Qua Luyện là hình ảnh và sinh hoạt trong một bệnh viện quân đội lớn nhất của miền Nam, nơi có tình đồng đội quí trọng nhau, có sự chăm sóc tận tình của những bác sĩ, y tá dành cho thương binh chiến trường.

 

Dù đang còn điều trị vết thương, sau tháng Tư 1975 Luyện cũng bị bắt đi học tập cải tạo 5 năm.

 

 blank

H03: Gặp gỡ khách trong buổi giới thiệu sách ở Đại học U.C. Davis, California, tháng 10/2016 (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 

Một thương phế binh tên Lúa đang được điều trị cũng bị đuổi ra khỏi tổng y viện. Gia đình Lúa sau đó phải đi kinh tế mới, ở đó thiếu thuốc men nên người con gái 7 tuổi của ông đã chết sau một cơn sốt. Ít năm sau về lại thành phố, không có tiền mua thuốc nên đứa con trai cũng qua đời khi mới 9 tuổi sau một cơn bệnh.

 

Hình ảnh y sĩ tiền tuyến cũng được ghi lại trong sách. Bác sĩ quân y Trần Xuân Dũng, sinh năm 1938, cựu học sinh Chu Văn An và Đại học Y khoa. Năm 1965 ông gia nhập quân đội và giữ chức y sĩ của Tiểu đoàn 4 Thủy quân Lục chiến là một đơn vị tác chiến thường xuyên đối đầu với địch trên chiến trường.

 

Phục vụ đồng đội cho đến những ngày cuối cùng của cuộc chiến có bác sĩ Nguyễn Mạnh Tiến ở mặt trận Gò Dầu Hạ.

 

Nhiều người lính Việt Nam Cộng hòa đã chu toàn nhiệm vụ cho đến khi buộc phải chết. Tiếp tục chiến đấu và không tuân lệnh đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh là tiểu đoàn trưởng Trần Đình Tú của Tiểu đoàn 38 Biệt Động quân. Dù có lệnh đầu hàng, ông đã cùng một số binh lính chiến đấu với bộ đội cộng sản ở quận Củ Chi cho đến khi hết đạn, để rồi bị bắt và bị xử tử cùng với nhiều đồng đội.

 

Hành động anh dũng của những người lính Biệt Động quân đã được một người cùng binh chủng là Nguyễn Hữu An, là bạn thân của Trần Đình Tú từ nhỏ, tìm hiểu và viết lại.

 

Tập sách còn chuyện kể của nhiều binh sĩ thuộc các quân chủng, đơn vị khác. Vũ Văn Bảo là phi công trực thăng đưa quân và tiếp liệu vào các vùng chiến trận. Hải quân có Trần Văn Giáo, Trương Công Hải là những sĩ quan. Nữ quân nhân có Thanh, Nguyễn Thị Minh Nguyệt, có Thúy.

 

Sau tháng Tư 1975 những người lính này đã phải trải qua nhiều tháng năm trong các trại học tập cải tạo từ nam ra bắc, ít thì vài tháng, nhiều thì cả chục năm. Ở những nơi đó họ phải lao động cực nhọc và đã thấy cảnh tù nhân qua đời.

 

Khi được thả cho về với gia đình họ vẫn bị coi là “ngụy”, bị quản chế, không được quyền công dân, bị đuổi đi kinh tế mới, con cái không được vào đại học chỉ vì lý lịch.

 

Con đường còn lại cho tương lai của chính họ và gia đình là vượt biên. Trong số thuyền nhân vượt biển nhiều người mất tích hoặc chết vì đói khát. Họ may mắn sống còn và được nước Úc nhận cho định cư.

 

Ở miền đất mới họ làm lại cuộc đời, hội nhập vào đời sống như hơn 230 nghìn người Việt đã định cư ở Úc trong hơn 40 năm qua.

 

Với chính sách dành cho những chiến binh đồng minh từng chiến đấu bên cạnh binh sĩ Úc nên có những cựu quân nhân Việt Nam Cộng hòa, trên 60 tuổi và đã định cư ở Úc trên 10 năm, được cứu xét cho hưởng quyền lợi cựu chiến binh Úc.

 

Năm 1994 có Trương Công Hải, sau có Nguyễn Việt Long và nhiều cựu chiến binh Việt Nam Cộng hòa khác đã được chính phủ Úc chấp thuận cho qui chế cựu chiến binh, sau khi hoàn tất thủ tục giấy tờ cùng với hai người làm chứng xác nhận về thời gian phục vụ trong quân ngũ.

 

Mỗi năm đến ngày ANZAC, nhiều cựu chiến binh Việt Nam Cộng hòa đã cùng với cựu chiến binh Úc tham gia diễn hành. Nhiều nơi trên đất Úc đã có tượng đài chiến sĩ Úc-Việt.

 

 blank

H04: Tượng đài chiến sĩ Úc-Việt ở Cabramatta, Úc (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 

“South Vietnamese Soldiers” không chỉ cho người đọc nhìn thấy cuộc đời của những người lính đã phục vụ tổ quốc, và những hệ lụy, mà còn đem đến những kiến thức về lịch sử thành hình của quốc gia và của các đơn vị, các binh chủng Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

 

Tác phẩm đã phản ánh tiếng nói và ước mơ của những người lính Việt Nam Cộng hòa, là những người “Việt tị nạn ở nước ngoài sau chiến tranh đã đem theo với họ những khát vọng của miền Nam là trở thành một quốc gia tự do dân chủ”, như tác giả ghi lại ở những trang cuối sách.

 

[Vì trong sách tên của người Việt không có dấu, người viết bài cố gắng bỏ dấu theo hiểu biết và có thể không đúng với tên thật ngoài đời. Mong được thứ lỗi nếu có sai sót]

 

[Nguồn VOA]

 

 

 



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ít lâu nay, vấn đề “bảo vệ an ninh quốc gia” được nói nhiều ở Việt Nam, nhưng có phải vì tổ quốc lâm nguy, hay đảng muốn được bảo vệ để tồn tại?
Xuất hiện gần đây trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, đã lên tiếng đe dọa là sẽ không bảo vệ cho các đồng minh thuộc khối NATO trong trường hợp bị Nga tấn công. Ý kiến này đã dấy lên một cuộc tranh luận sôi nổi tại châu Âu, vì có liên quan đến việc răn đe Nga và ba kịch bản chính được đề cập đến khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng vào năm 2025 là liệu Liên Âu có nên trang bị vũ khí hạt nhân chăng, Pháp có thể tích cực tham gia không và Đức nên có tác động nào.
Tôi không biết chính xác là Văn Trí đã đặt chân đến Đà Lạt tự lúc nào nhưng cứ theo như ca từ trong nhạc phẩm Hoài Thu của ông thì Cao Nguyên Lâm Viên ngày ấy vẫn hoang vu lắm. Ngoài “núi rừng thâm xuyên”, với “lá vàng rơi đầy miên man”, cùng “bầy nai ngơ ngác” (bên “hồ thu xanh biếc”) thì dường như không còn chi khác nữa! Từ Sài Gòn, khi tôi được bố mẹ “bế” lên thành phố vắng vẻ và mù sương này (vào khoảng giữa thập niên 1950) thì Đà Lạt đã bị đô thị hóa ít nhiều. Nơi đây không còn những “bầy nai ngơ ngác” nữa. Voi, cọp, heo rừng, beo, báo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà rừng, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, cáo, chồn… cũng đều đã biệt tăm. Người Thượng cũng ở cách xa, nơi miền sơn cước.
Vi hiến có nghĩa là “vi phạm” hay đi ngược lại những gì Hiến Pháp (HP) quy định. HP không có gì là cao siêu hay quá bí ẩn. Hiến Pháp trong bản chất chỉ là một bộ luật. Sự khác biệt chỉ là: HP là một bộ luật nền tảng hay nôm na là “luật mẹ”. Không những không cá nhân hay hữu thể pháp lý nào trong xã hội, kể cả hành pháp (tức chính phủ) được quyền vi phạm HP, mà không một luật pháp nào của lập pháp (tức quốc hội) được quyền vi phạm HP cả...
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo đường mòn Chủ nghĩa đã lu mờ trong thưc tế và thất bại trong hành động tại Đại hội đảng kỳ 14 vào tháng 1 năm 2026. Khẳng định này của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng là bằng chứng cho tính chai lỳ, chậm tiến và lạc hậu, không phải của riêng ông mà toàn đảng...
Thứ Bảy 24/2/2024 đánh dấu hai năm kể từ khi Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện nước Ukraine. Cuộc xung đột đang lâm vào tình trạng bế tắc và ngày càng tàn khốc. Nhân dịp này ông Nick Schifrin, một phát thanh viên của kênh truyền hình PBS, đã tổ chức một buổi thảo luận bàn tròn về hiện tình của cuộc chiến, nó có thể đi đến đâu và chính sách của Hoa Kỳ đối với Ukraine sẽ ra sao. Hiện diện trong buổi thảo luận có các ông Michael Kofman, John Mearsheimer và bà Rebeccah Heinrichs...
Đôi lời từ tác giả: “Sẽ có nhiều người không thích bài viết này. Họ sẽ cảm thấy bị công kích và rằng thật bất công. Phản ứng càng mạnh mẽ càng cho thấy nỗi sợ hãi về chủng tộc đã cắm rễ sâu vào nền chính trị Hoa Kỳ, và sẽ tồn tại mãi.” Tầm quan trọng của vấn đề chủng tộc trong nền chính trị của chúng ta được thể hiện rõ ràng qua chiến dịch tranh cử tổng thống hiện tại. Khẩu hiệu (slogan) đình đám nhất là từ chiến dịch tranh cử của Donald Trump: “MAGA” – Make America Great Again (Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại). Ý của slogan này là Hoa Kỳ đã từng rất vĩ đại, nhưng đã và đang đánh mất hào quang của mình.
Sau 11 năm chống Tham nhũng (2013-2024) nhưng Tham nhũng cứ trơ ra cười vào mũi Đảng là tại sao?
Thời gian gần đây, những người thương vay khóc mướn ở Việt Nam thường đem vấn đề Chủ nghĩa Xã hội và đảng có quyền một mình lãnh đạo ra hù họa dư luận. Tuy nhiên, càng vênh váo và cù nhầy bao nhiêu lại càng lâm vào thế bí. Những bài viết không trả lời được câu hỏi: Ai đã trao quyền lãnh đạo cho Đảng, và tại sao Đảng sợ Dân chủ đến thế?
Cận Tết năm Thìn, Marianne Brown (Guardian Weekly) có bài “Vietnam’s parents want a dragon son.” Trời! Tưởng gì, chớ cả Tầu lẫn Ta ai mà không muốn có con trai tuổi Rồng. Nhâm Thìn, tất nhiên, lại càng bảnh dữ nữa. Nam nhâm nữ quí thì sang mà lị. Theo tuviso.com: “Tuổi Nhâm Thìn có nhiều hy vọng tốt đẹp về vấn đề tình duyên và tương lai về cuộc sống, có phần tốt đẹp về tình cảm và tài lộc, vào trung vận và hậu vận thì được nhiều tốt đẹp về hạnh phúc, công danh có phần lên cao.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.