Hôm nay,  

Tự Điển Cao Đài - Phần 3

03/04/201700:04:00(Xem: 3956)

Tự Điển Cao Đài
Hiền Tài Quách Văn Hòa
 
Phần 3
Từ BẨM TÍNH tới BỘ NHẠC


 

BẨM TÍNH 稟 性

        Bẩm: Tự Trời phú cho, nói về tư chất.

        Tính (tánh): Cái bản nguyên về tinh thần của người, bản chất của người, vật.

        Bẩm tính là tính vốn có, do tự nhiên, hoặc có quan điểm cho rằng bẩm tính là tính trời đã phú cho.

        Như: Bẩm tính cô ấy hiền lành.

                     Bản thân thường chuộng theo đường chánh,

                     Bẩm tính hằng ghi tránh nẻo tà.

                                                (Thơ Thái Minh).

BẦN

        Bần 貧 là nghèo khó. Như: Bần hàn, bần khổ, cờ bạc là bác thằng bần.

        Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Hiện giờ cùng chung chịu cảnh thanh bần của Đạo, chúng tôi phải tiết kiệm đồng tiền của Đạo hết sức cân phân lợi hại trước khi tiêu phí, vì đó là huyết mạch của nhơn sanh, chúng ta không có quyền phung phí vô lối.

                     Đừng quá so đo việc phú bần,

                     Bần hàn trong sạch mới nên thân.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BẦN BẠC 貧 薄

        Bần: Nghèo khó, như cờ bạc là bác thằng bần. Bạc: Mỏng manh, yếu, nghèo, tệ, hèn kém.

        Bần bạc là nhà nghèo hèn, của cải không được mấy.

        Như: Cảnh nhà bần bạc.

                     Thầm nghĩ kẻ sang no ấm phận,

                     Cảm người bần bạc chạnh lòng thương.

                                                (Thơ Thái Đến Thanh).

BẦN CÙNG 貧 窮

        Bần: Nghèo. Cùng: Cuối hết, khốn khổ.

        Bần cùng là nghèo khổ đến cùng cực.

        Bần cùng còn có nghĩa là ở vào thế cùng, thế bí, không có cách nào khác.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Lúc Đạo còn khổ não, nghèo nàn, hèn hạ, thiên hạ đã khinh rẽ thế nào, có lạ chi theo thói tục thường tình của thiên hạ, họ thấy kẻ nghèo, kẻ khổ, kẻ rách rưới bần cùng họ miệt sát khi rẽ. Trước kia chơn tướng của Đạo cũng bị như thế.

                        Hễ bần cùng thì vay mượn,

                        Phải phận vướng nợ nần.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BẦN DÙNG

        Dùng: Dùng dằng, lưỡng lự không quyết định.

        Bần dùng là chần chừ, dụ dự, không có thái độ quyết định, hay dứt khoát.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Đường đạo vững bền, chớ nên bạo tính mà cũng chẳng nên giải đãi bần dùng, gắng công trì chí, liệu chừng với nhau mà vẹt cho sạch mấy lối chông gai để cho dễ bước đường sau tấn bộ.

Môn đệ nhiều đứa lòng vẫn nhẹ tợ lông, thấy sự chi khó thì đã muốn bần dùng thối bước.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BẦN HÀN 貧 寒

        Bần: Nghèo. Hàn: Lạnh lẽo.

        Bần hàn là nghèo lạnh. Vì nghèo không tiền sắm quần áo nên phải khổ do lạnh. Bần hàn chỉ cảnh nghèo nàn khổ sở.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy có dạy: Bị hàng phẩm Nhơn tước phải phù hạp với hàng phẩm Thiên tước, đáng lẽ Thầy cũng nên cho các con chịu số phận bần hàn mà không nỡ, nên ngày nay mới có kẻ như vậy.

                     Thương cửa bần hàn mà xuất Thánh,

                     Nếu thâu tức khắc hiếm người cười.

                                                (Đạo Sử).

                     Ngãi nhân cam phận chịu bần hàn,

                     Mình biết trọng mình mặc kẻ sang.

                                                (Đạo Sử).

                     Đã vợ chồng đừng kể hèn sang,

                     Dầu chồng kẻ bần hàn cũng chúa.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BẦN KHỔ 貧 苦

        Bần: Nghèo. Khổ: quá khó khăn, thiếu thốn về vật chất, hoặc bị giày vò, đau đớn về tinh thần.

        Bần khổ là nghèo nàn và khổ sở.

        Trong quyển Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có viết: Theo sách Lễ Ký, lòng người ta lúc nào cũng có muốn sự ăn uống, sự trai gái và sợ cái nạn tử vong, bần khổ.

                     Thương người bần khổ tiết trời đông,

                     Sanh hoạt bao phen lội giữa đồng.

                                                (Thơ Thái Đến Thanh).

BẦN TIỆN 貧  賤

        Bần: Nghèo. Tiện: Hèn.

        Bần tiện là nghèo hèn. Như: Cảnh nhà bần tiện.

        Khi nói về người trượng phu, Mạnh Tử cho rằng: Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu 富 貴 不 能 婬, 貧 賤 不 能 移, 威 武 不 能 屈, 此 之 謂 大 丈 夫, nghĩa là giàu sang không làm cho say đắm, nghèo hèn không làm cho thay đổi, oai võ không làm cho khiếp sợ, ấy mới gọi là đại trượng phu.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Phú quý thì hành động theo phú quý, bần tiện thì hành động theo bần tiện, tuỳ theo thời thế và cảnh ngộ mà đối đãi với mọi người; giàu chẳng bợ, khó chẳng khinh, người quân tử lúc nào cũng an phận mà vui thú.

                     Phú cường xa xỉ không phòng bị,

                     Bần tiện cần cù giữ kỷ cang.

                                                (Thơ Thái Đến Thanh).

BẨN

        Bẩn là có nhiều bụi bặm, cáu ghét hoặc bị dơ dáy, trái với sạch.

        Như: Đống rác trước nhà trông rất bẩn, moi đất làm cho tay bẩn, mực lem luốc làm cho bẩn vở.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Thánh Thể của Đức Chí Tôn hồi buổi đó không giá trị, không trật tự, họ chia phe phân phái, họ còn phe đảng dữ lắm, mạnh đặng yếu thua, thế lực dữ lắm không có cái gì thiếu, làm cho Thánh Thể Đức Chí Tôn buổi nọ dơ bẩn làm sao đâu, không thể tưởng tượng được.

Thiên hạ cúi mình bò lết trong chỗ nhơ bẩn vì chút ít lợi quyền, chúng ta phải vươn mình lên cao để đón hứng mùi hương thanh thoát…

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BẨN THỈU

        Bẩn: Dơ dáy, xấu xa, đê tiện.

        Bẩn thỉu là dơ dáy, nhơ nhớp.

        Bẩn thỉu còn có nghĩa là hẹp hòi, ty tiện, xấu xa đến mức đáng khinh ghét.

        Huấn từ Thượng Sanh trong dịp Hội Thánh đãi tiệc chư Chức sắc và Nhân viên công quả tại Hạnh Đường ngày 18 tháng Giêng năm Tân Hợi (Dl.13/2/1971) có đoạn: Người đã khép mình trong cảnh giới tu hành đã xả thân cầu Đạo, thấy diễn những lớp tuồng bẩn thỉu như vậy cũng đã bất bình, chán ngán. Không lẽ còn mê luyến hồng trần, ham mùi chung đỉnh để rồi phải chịu lỡ dở công phu trên đường lập vị.

Những kẻ đau khổ chán chường, đó là những vết đen tối của bức tranh xã hội những vai tuồng bẩn thỉu của sân khấu đời.

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BẬN

        1.- Bận là có việc đang phải làm, không còn có thể làm gì khác được. Như: Bận dọn dẹp, bận làm bài.

        Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nơi cửa Đạo, người hành đạo phải làm gương mẫu cho nhơn sanh và muốn lập chữ tâm phải quên được cái “bản ngã” thường tình. Trừ bỏ được bịnh chỉ biết có mình, hành vi nào cũng được trong sạch, khỏi bận tâm lo mất còn thiếu đủ.

Trừ ra đứa nào phải vắng mặt bận việc thì chế đặng.

                                        (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

        2.- Bận là mặc, vận, khoác vào người. Như: Bận áo quần, ăn bận đẹp đẽ.

        Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Có câu chuyện tức cười, bằng cớ hiển nhiên như Đức Trạng Trình là Nguyễn Bỉnh Khiêm buổi nọ hồi còn bé đi học, có Quan Huyện đến xét trường hay là thăm trường chi đó, nghe nói Ngài nổi danh Thần Đồng khi thấy Ngài nhỏ người, thân không cao lớn hơn ai, lại bận áo rộng xùng xình, vì bận bính của ai đó lết bết dưới đất tức cười lắm nên ghẹo chơi.

                     Đứa cầm dùi đục, thằng nghiên mực,

                     Cậu bận áo nâu, chú khố hồng.

                                                (Thiên Thai Kiến Diện).

                     Lỡ tay làm ra áo lộn hò,

                     Mà bị chúng phạt cho bận trái.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BẬN BỊU

        Bận: Mắc, không rảnh, hay vướng vít.

        Bận bịu là vướng bận, tức là ràng buộc, hay vướng mắc nhiều thứ công việc.

        Thánh giáo Đức Hộ Pháp có dạy: Thầy đã có nói với tất cả các con lớn nhỏ rằng, thầy không buộc mỗi đứa phải ở lại cho đến ngày thầy về với cái liên đài, chỉ trừ chú Đốc và Cao, cùng đứa nào không bận bịu gia đình và hiếu đạo.

                     Nghiệp nước nỗi nhà còn bận bịu,

                     Thanh nhàn chưa phải buổi xem mai.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Chưa rảnh nợ đời còn bận bịu,

                     Muốn toan thoát tục tính sao xong.

                                                (Đạo Sử).

                     Bởi mến cảnh đôi cành đài liễu,

                     Bởi ưa hoa bận bịu đài hoa.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BẬN LÒNG

        Bận: Mắc, không rảnh, hay vướng vít. Lòng: Lòng dạ, biểu tượng cho tâm lý tình cảm.

        Bận lòng là để tâm lo lắng, suy nghĩ đến mức không thể yên lòng được.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thanh Tâm Tài Nữ có câu: Em đã nói trước với quý anh rồi, có lạ chi dòng luân luân chuyển chuyển mà da díu bận lòng. Em đến giúp nên cơ Đạo đặng báo nghĩa cho Chí Tôn.

                     Ngàn dâu ngó ngày chầy thăm thẳm,

                     Bận lòng con lại vấn nô y.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BÂNG KHUÂNG

        Bâng khuâng là có những cảm xúc luyến tiếc, nhớ thương xen lẫn nhau, gây ra trạng thái như hơi ngẩn ngơ.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Nạn nhơn sống sót phải chịu vất vả điêu linh, màn trời chiếu đất, lại còn phải bâng khuâng lo sợ không biết số phận mình ngày mai sẽ ra thế nào?

                     Phận liễu mai phải mang kiếp hồng trần,

                     Thầy lắm lúc bâng khuâng thương trẻ dại.

                                                (Ngọc Hoàng Thượng Đế).

                     Từ giã các con ở lại trần,

                     Mẹ về Tiên cảnh dạ bâng khuâng.

                                                (Diêu Trì Kim Mẫu).

                     Nhắn mưa gởi gió bâng khuâng để,

                     Một tấm tơ duyên đứt đoạn gìn.

                                                (Bát Nương Giáng Bút).

BẬP BẸ

        Bập bẹ là chỉ cách nói hoặc đọc một cách khó khăn và chưa rõ ràng, vì mới học nói, mới biết một ít, tức lời nói khó nghe, chưa được rõ ràng.

        Như: Bập bẹ như trẻ lên ba, con bé bập bẹ nói, nó mới biết đánh vần bập bẹ.

                     Rủi gặp trẻ tranh lời lấn lẽ,

                     Phải nhớ em bập bẹ nói từ lời.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BẬP BỒNG

        Bập bồng, như chữ “Bập bềnh”, là từ gợi tả dáng chuyển động lên xuống, nhấp nhô theo làn sóng, làn gió.

        Bập bồng còn có nghĩa không chắc, bấp bênh, nổi lên dẹp xuống, đi bước cao bước thấp không đều.

Bập bồng Tần quốc tan hoang,

Hoàng cung không chúa, ngai vàng không vua.

                                                (Nguyễn Trung Trực Giáng).

                     Một bầu trời nước rộng mênh mông,

                     Ngồi chiếc thuyền câu thả bập bồng.

                                                (Thơ Thông Quang).

                     Co ro bến vắng chiều quan tái,

                     Đò lẻ sang sông bến bập bồng.

                                                (Thơ Hoàn Nguyên).

BẤT

        Bất là không, chẳng, không dùng một nình. Như: Bất bình, bất đắc dĩ, bất mãn, bất tiêu bất diệt.

        Thánh giáo Thầy có dạy: Còn chấp bút, khi Thầy đến thì làm cho thần con bất định một lát, cho thần xuất ra nghe Thầy dạy, còn tay con tuân theo mà viết. Ấy là một phần của con, một phần của Thầy hiệp nhứt, mới thấu đáo Càn khôn, tinh thông vạn vật đặng.

                     Ngọc ẩn thạch kỳ ngọc tự cao,

                     Hoàng Thiên bất phụ chí anh hào.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Lời khen miệng thế quí chi đâu,

                     Bất quá như son lộn bã trầu.

                                                (Đạo Sử).

BẤT BÌNH 不 平

        Bất: Chẳng. Bình: Công bình, bằng lòng.

        Bất bình là chẳng có bình đẳng, hoặc có nghĩa là không bằng lòng.

        Thánh Giáo Chí Tôn dạy: Thầy lại còn nói rằng, ngày nào các con còn trông thấy một điều bất bình ở đời nầy thì Đạo chưa thành vậy.

                     Một nhà gia pháp xưa đâu mất,

                     Để lũ con hoang rất bất bình.

                                                (Đạo Sử).

                     Lỡ bất bình con chẳng giống cha,

                     Làm lếu giống chà và ma ní.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BẤT CẬP 不 及

        Bất: Chẳng. Cập: Kịp.

        Bất cập là không ngang tới, không bằng, tức là chưa đúng mức.

        Thái quá và bất cất cập là hai thái độ mà các Nho gia thời xưa thường khuyên người ta nên tránh, mà phải giữ mức trung dung.

                     Chớ thái quá đừng lòng bất cập,

                     Phép tu hành luyện tập nhiều ngày.

                                                (Kinh Sám Hối).

                     Không thái quá, không dùng bất cập,

                     Giữ bực thường bồi đắp thiện căn,

                                                (Đại Thừa Chơn Giáo).

BẤT CÔNG 不 公

        Bất: Chẳng, không. Công: Ngay thẳng, không tư vị.

        Bất công là ngay thẳng, không công bằng.

        Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Từ bốn mươi năm nay, trải qua bao nhiêu thăng trầm biến chuyển, chịu biết bao sự bất công và áp bức của bạo quyền, mặc dù có lúc trực tiếp nhận lấy phần hy sinh để thể hiện sứ mạng Đạo cứu Đời, Đạo Cao-Đài hôm nay mới chính thức nở mặt với các tôn giáo miền Âu Á để đem giọt bác ái, từ bi chan rưới cho đồng bào chủng tộc.

Chẳng lẽ ngôi Tiên phẩm Phật là địa vị tối trọng của các chơn linh mà Thầy lại đành bất công, tự nhiên đem các con mà để trên đó.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BẤT CHÁNH

        Hay “Bất chính”.

        Bất: Chẳng, không. Chánh (chính): Ngay thẳng.

        Bất chánh, như chữ “Bất chính 不 正”, là không ngay thẳng, không chính đáng, trái với đạo đức.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Thầy đã lấy lòng từ bi và đức háo sanh mà dìu dắt các con của Thầy, chẳng dụng sự khinh trọng mà làm cho chinh lòng các con, chẳng lấy hành tàng bất chánh mà làm cho mất điều hoà nhã.

                     Vô vi chưa dễ bày chân tướng,

                     Bất chánh thường hay lộ giả hình.

                                                (Thơ Thuần Đức).

Đời rày hung bạo ngỗ ngang,

Lòng người bất chánh, dạ càng bất nhơn.

                                                (Đại Thừa Chơn Giáo).

BẤT DI BẤT DỊCH

不 移 不 易

        Bất di: Chẳng dời. Bất dịch: Không đổi.

        Bất di bất dịch là không dời không đổi.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có dạy: Ta đã hiểu được cái chơn linh của chúng ta nó bất di bất dịch, nó tồn tại mãi mãi nơi cõi Hằng Sống, biết được cái sống ấy là hằng sống thì ta phải tô điểm nó, gìn giữ nó cho được trường tồn đẹp đẽ.

Dòng đời xuôi ngược cứ thay đổi theo thế hệ trào lưu, chỉ có chơn lý là bất di bất dịch.

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BẤT DIỆT 不 滅

        Bất: Chẳng, không. Diệt: Tiêu diệt, mất.

        Bất diệt là chẳng bao giờ mất.

         Trong lễ Kỷ niệm Đức Hộ Pháp, Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Sau nữa, nhớ công ơn Đức Ngài, chúng ta phải thành thật thương yêu nhau, không vì một lẽ nào mà chia rẽ nhau, thù nghịch lẫn nhau, vì Đức Ngài cũng vì thương yêu, nên đã phí cả một kiếp sanh để gắng công lưu lại cho đời một tinh thần bất diệt.

                     Huệ đăng bất diệt,

                     chiếu Tam thập lục Thiên chi quang minh.

                                                (Kinh Cúng Tứ Thời).

                     Thân tục hoá làm thân bất diệt,

                     Phước phàm đổi lấy phước thiêng liêng.

                                                (Thơ Tiếp Đạo).

BẤT ĐỊNH 不 定

        Bất: Chẳng, không. Định: Yên lặng, ổn định.

        Bất định là ở trạng thái không ổn định, hay thay đổi.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có đoạn: Trái lại nếu Lễ không nghiêm, Nhạc không hoà thì đàn cúng có cái trạng thái hỗn loạn khiến cho người đến Lễ bái có một tâm trạng xao xuyến, tinh thần bất định. Đó là một sự thất Lễ đối với các Đấng Thiêng liêng và như vậy Đức Chí Tôn không khi nào giáng Đàn, tà quái có thể thừa dịp xung nhập gây nên điều rắc rối.

Còn chấp bút, khi Thầy đến thì làm cho thần con bất định một lát, cho thần xuất ra nghe Thầy dạy, còn tay con tuân theo mà viết.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BẤT ĐỒNG 不 同

        Bất: Chẳng, không. Đồng: Cùng, giống như.

        Bất đồng là không cùng nhau, không đều nhau, hay không giống nhau.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy đạo một người Pháp là Latapie có câu: Tại sao các con lại chia rẽ nhau vì sự bất đồng Đạo lý, mà chính tất cả các con đều phải chung chịu đau khổ để rửa tội của các con ở cõi thế gian nầy?

                     Tôn Giáo cũng bất đồng tư tưởng,

                     Đạo Hồi dùng tín ngưỡng cực nghiêm.

                                                (Thiêng Liêng Hằng Sống).

BẤT ĐỨC 不 德

        Bất: Chẳng, không. Đức: Tính tốt, hợp với đạo lý.

        Bất đức là không có đạo đức.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Sanh nhằm thời buổi nhơn sanh dụng gương bất đức mà gieo hoạ cho bước trần, khiến cho sai sót nẻo luân thường.

                     Dạy cho ghê bán dạng thuyền quyên,

                     Đừng đem xác chở chuyên trai bất đức.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BẤT GIÁO NHI THIỆN

不 教 而 善

        Bất: Không. Giáo: Dạy. Nhi: Mà. Thiện: Lành.

        Bất giáo nhi thiện là chẳng cần nghe lời dạy mà tánh vẫn lành, ý chỉ vào hàng thượng phẩm, thuộc bậc Thánh.

        Trong Minh Tâm Bửu Giám có câu: Thượng phẩm chi nhân bất giáo nhi thiện, trung phẩm chi nhân, giáo nhi hậu thiện, hạ phẩm chi nhân, giáo diệc bất thiện. Bất giáo nhi thiện, phi Thánh nhi hà? Giáo nhi hậu thiện, phi Hiền nhi hà? Giáo diệc bất thiện, phi ngu nhi hà? 上 品 之 人, 不 敎 而 善, 中 品 之 人, 教 而 後 善, 下 品 之 人, 教 亦 不 善. 不 教 而 善, 非 聖 而 何? 教 而 後 善, 非 賢 而 何? 教 亦 不 善, 非 愚 而 何?, nghĩa là bậc thượng phẩm, chẳng cần ai dạy cũng lành, bậc trung phẩm nhờ có người dạy mới lành, bậc hạ phẩm, dù có người dạy cũng chẳng lành. Không dạy mà lành, chẳng phải bậc Thánh là gì? Dạy rồi mới lành, chẳng phải bậc hiền là gì? Dạy cũng chẳng lành, chẳng phải người ngu là gì?

Thánh nhơn đã có nói: "Thánh" bất giáo nhi thiện, "Hiền" giáo nhi hậu thiện, "Ngu" giáo diệc bất thiện…

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

BẤT HIẾU 不 孝

        Bất: Chẳng, không. Hiếu: Có lòng kính yêu và chăm sóc cha mẹ.

        Bất hiếu là không hiếu thảo, tức chỉ người làm con không có lòng biết ơn, không kính yêu và không lo chăm sóc cha mẹ, ông bà.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Quan Âm Như Lai có câu: Các em thử xét, ở đời nếu cha phàm mà rủi có một đứa con bất hiếu thì có phiền chăng?

                     Con bất hiếu xay cưa đốt giã,

                     Mổ bụng ra phanh rã tim gan.

                                                (Kinh Sám Hối).

BẤT HIẾU HỮU TAM

不 孝 有 三

        Bất: Chẳng, không. Hiếu: Thảo với cha mẹ. Hữu: Có Tam: Ba.

        Bất hiếu hữu tam, do câu: Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại 不 孝 有 三, 無 後 為 大, nghĩa là có ba điều bất hiếu, không con là tội nặng.

        Xuất xứ câu này là của Mạnh Tử.

        Trong Tứ Thư Tập Chú, Chu Hy chú giải về ba điều bất hiếu rằng: Nhà nghèo, cha mẹ già yếu, mình không mưu tính việc làm để nuôi mẹ, ấy là một bất hiếu. Hùa theo ý muốn chẳng hay để hãm cha mẹ vào việc bất nghĩa, ấy là hai bất hiếu. Không lấy vợ đẻ con, làm tuyệt nòi giống của cha mẹ, ấy là ba bất hiếu.

"Bất hiếu hữu tam vô hậu kế đại" luật thiên nhiên đã định vậy, vì lo nhơn luân tối trọng là thế nào, Qua nói cho mấy em thấu đáo.

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

BẤT HOÀ 不 和

        Bất: Chẳng, không. Hoà: Hoà hợp, hoà thuận.

        Bất hoà là không hoà hợp hay hoà thuận với nhau.

        Thánh giáo Đức Quan Âm Như Lai có dạy: Còn gia đình chẳng hoà thì cha con mích nhau, chồng vợ lìa tan, anh em ly tán. Còn trong lân lý chẳng hoà thì dân cư bất mục. Nước chẳng hoà thì sanh ly loạn. Còn cả thế giới bất hoà thì nhơn loại đấu tranh. Vì vậy, Thiếp khuyên các em dĩ hoà vi tiên.

                     Thiên căn chánh kiếp chỉ tâm hành,

                     Thán thế bất hoà chỉ cạnh tranh.

                                                (Đạo Sử).

                     Chánh sách bất hoà không hội hiệp,

                     Hoàn đồ chia xẻ khó chung đồng.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

BẤT HOẶC 不 惑

        Bất: Chẳng, không. Hoặc: Nghi ngờ.

        Bất hoặc là không còn nghi ngờ gì nữa, chỉ ngoài bốn mươi tuổi.

        Do câu nói của Đức Khổng Tử: Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mạng 三 十 而 立, 四 十 而 不 惑, 五 十 知 天 命, nghĩa là con người, ba mươi tuổi thì lập, bốn mươi tuổi thì không còn nghi ngờ, lầm lẫn nữa, năm mươi tuổi thì biết mệnh trời.

Nhơn gian bất hoặc là gì,

Biết thân lập chí ắt thì thành công.

                                                (Đại Thừa Chơn Giáo).

BẤT HỦ 不 朽

        Bất: Chẳng, không. Hủ: Mục nát.

        Bất hủ là chẳng mục nát.

        Tả Truyện có câu: Thượng hữu lập đức, kỳ thứ hữu lập công, kỳ thứ hữu lập ngôn. Tuy cửu bất phế, thử chi vị bất hủ 上 有 立 德, 其 次 有 立 功, 其 次 有 立 言. 雖 久 不 廢, 此 之 謂 不 杇, nghĩa là trên có lập đức, tiếp đến là lập công, sau nữa là lập ngôn.Tuy lâu mà không hư hỏng, nên gọi là bất hủ (Không mục nát).

        Như vậy, tánh đức, công nghiệp và ngôn từ lưu lại về sau thì mãi mãi không mất.

        Nghĩa bóng: Bất hủ là không mất, còn mãi mãi.

                     Tiều lão muôn đời danh bất hủ,

                     Cầu chi quyền thế chạy thi đua.

                                                (Thơ Thông Quang).

                     Chạm thanh sử cho dời danh bất hủ,

                     Gội hồng ân nhờ đạo phước vô biên.

                                                (Cội Đạo Bốn Mùa).

                     Diệt mỵ trừ gian danh bất hủ,

                     Xuân Thu lập chí nguyện làu gương.

                                                (Thơ Huệ Phong).

BẤT KỲ 不 期

        Bất: Chẳng, không. Kỳ: Hạn, hẹn.

        Bất kỳ là không có kỳ hẹn, thỉnh thoảng.

        Bất kỳ còn có nghĩa như chữ “Bất cứ”, là không loại trừ trường hợp cụ thể nào cả.

        Thánh giáo Thầy có dạy: Chẳng luận là Nam hay Nữ, bất kỳ là nước nào, nó muốn biết đạo lý, con phải độ, biểu chúng nó đến nghe Thầy dạy mới có thế nó tu hành đặng, trước con không nên buộc chúng nó lắm.

                     Thương đám nhơn sanh Trời trổ mặt,

                     Trả lời như vậy bất kỳ ai.

                                                (Đạo Sử).

BẤT LUẬN 不 論

        Bất: Chẳng, không. Luận: Bàn.

        Bất luận là không kể, không suy đến.

        Đạo Luật Mậu Dần có câu: Bàn Trị Sự nên chọn cử hạng người tài đức, bất luận là thanh niên hay là bậc trưởng lão, miễn vị ấy đặng phần đông tín nhiệm là đủ.

Thầy đã nói, đãi cả môn đệ Thầy đồng một mực, bất luận bậc phẩm.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

                     Xuân về én luyện khắp mây ngàn,

                     Bất luận người nghèo với kẻ sang.

                                                (Thơ Hiến Pháp).

BẤT LỰC 不 力

        Bất: Không, chẳng. Lực: Sức, khả năng.

        Bất lực là không làm gì được, tức không có hoặc không đủ sức làm việc.

        Thánh giáo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn có câu: Bần đạo đã chán thấy kẻ bất lực rất nhiều. Vậy Bần đạo để lịnh cho mỗi vị Thiên phong xét mình, khai tội cùng Giáo Tông và Hộ Pháp, rồi sau mới định rõ điều thưởng phạt.

Việc đào tạo Chức Sắc là quyền sở hữu của Vạn Linh, nếu Chức Sắc trong Thánh Thể Đức Chí Tôn thiếu thì Bần Đạo có thể đỗ cho quyền Vạn Linh bất lực.

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

BẤT LƯƠNG 不 良

        Bất: Chẳng. Lương: Lương thiện, lành.

        Bất lương là không lương thiện, không lành.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Trong các con, nhiều đứa muốn chư Thần, Thánh hành phạt những tánh bất lương của bọn vô đạo kia đặng làm cho đường đạo vững bền, nền Đạo mau thành tựu.

Phật Trời nhơn vật đồng thương,

Có đâu hưởng của bất lương mà mời.

                                                (Kinh Sám Hối).

BẤT MÃN 不 滿

        Bất: Không, chẳng. Mãn: Đầy, tự cho là đủ.

        Bất mãn là không được thoả mãn điều mong muốn và có sự phản ứng.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Còn như những kẻ không biết hạ mình hiu hiu tự đắc, tự cao, tự đại, thành ra cái giá trị của nó đối với thiên hạ vì kiêu một chút mà người ta bất mãn, vì nó tự cao, tự tôn, tự đại, xấc xược dối trá không đáng giá gì hết,

                     Chưa gặp thời Lý Hề dày dạn,

                     Bắt đưa dâu bất mãn trốn đi.

                                                (Báo Ân Từ).

Đã bất mãn khó cảm thông

Tự định vị để thoát vòng chuyển luân

                                                (Thiêng Liêng Hằng Sống).

BẤT MINH 不 明

        Bất: Không, chẳng. Minh: Sáng suốt, rõ ràng.

        Bát minh là không sáng suốt, không rõ ràng, có chỗ mờ ám đáng nghi ngờ.

        Thánh giáo Thầy dạy Ngài Quyền Giáo Tông có câu: Trước khi ngưng cơ, Thầy đã cho lịnh dùng cơ bút thế nào? Thầy tưởng mỗi Thiên phong đều đặng Thánh Ngôn của con đã ban hành, sao còn có ra việc bất minh ấy, là con chẳng nói tất cho mỗi Thiên phong rõ và ban hành Thánh ý, để cho chúng nó chác lấy vào mình, thì con cũng không khỏi chia một phần trong ấy.

Thưởng phạt ra bất minh, ắt phải truất bỏ cơ luân hồi chuyển kiếp.

                                    (Pháp Chánh Truyền CG).

BẤT MỤC 不 睦

        Bất: Chẳng, không. Mục: Hoà thuận.

        Bất mục là không hoà thuận nhau.

        Lời của sách Ích Trí dạy như sau: Quân thần bất tín, quốc bất an; phụ tử bất tín, gia bất mục; Huynh đệ bất tín, tình bất thân; bằng hữu bất tín, giao dị sơ 君 臣 不 信, 國 不 安; 父 子 不 信, 家 不 睦; 兄 弟 不 信, 情 不 親; 朋 友 不 信, 交 易 疏, nghĩa là vua tôi chẳng tin nhau, nước chẳng yên ổn; cha con chẳng tin nhau, nhà chẳng hoà thuận; anh em chẳng tin nhau, tình chẳng thân; bạn bè chẳng tin nhau, giao kết sơ.

        Thánh Giáo Đức Quan Âm Bồ Tát dạy: Còn gia đình chẳng hoà thì cha con mích nhau, chồng vợ lìa tan, anh em ly tán. Còn trong lân lý chẳng hoà thì dân cư bất mục. Nước chẳng hoà thì sanh ly loạn. Còn cả thế giới bất hoà thì nhơn loại đấu tranh.

Cũng vì lòng dạ vô lương,

Đệ huynh bất mục chẳng thương đồng bào.

                                                (Kinh Sám Hối).

BẤT NGÔN NHI MẶC TUYÊN ĐẠI HOÁ

不 言 而 默 宣 大 化

        Bất ngôn: Không nói. Nhi: Mà. Mặc: Nín lặng. Tuyên: Làm cho rõ rệt. Đại hóa: Sinh hoá lớn.

        Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hoá là trong sự tĩnh lặng, Trời đất cứ vận hành sinh hoá cả Càn khôn Vũ trụ. Không thấy có Trời đất, nhưng không đâu là chẳng có trời đất. Trong Trời đất không có cái gì là không biến đổi luôn.

        Đức Khổng Phu Tử có lần đứng trên bờ sông, ngắm dòng nước chảy mà than rằng: “Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ! 逝 者 如 斯 夫, 不 舍 晝 夜!”: Đêm ngày cứ chảy luôn như thế mãi! Ý của Phu tử muốn nói Đạo của Trời đất cứ lưu hành như nước chảy, không lúc nào ngừng nghỉ, chẳng nơi đâu mà không lưu hành và lưu hành trong tĩnh lặng.

        Luận Ngữ cũng có câu: “Thiên hà ngôn tai! Tứ thời hành yên, vạn vật sanh yên? Thiên hà ngôn tai!” 天 何 言 哉! 四 時 行 焉, 萬 物 生 焉, 天 何 言 哉! nghĩa là Trời có nói gì đâu! mà bốn mùa đổi thay, muôn vật sinh thành, Trời có nói gì đâu!.

                     Nhược thiệt nhược hư,

                     Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hoá.

                                                (Kinh Cúng Tứ Thời).

BẤT NGHĨA 不 義

        Bất: Chẳng, không. Nghĩa: Đạo lý, việc theo đường lối phải,.

        Bất nghĩa là không hợp đạo lý, hoặc không nhớ đến ơn nghĩa.

        Trong Luận ngữ có câu: Bất nghĩa nhi phú thả quý ư ngã như phù vân 不 義 而 富 且 貴 於 我 如 浮 雲, nghĩa là bất nghĩa mà giàu và sang, đối với ta như đám mây nổi.

        Thánh giáo Thầy có dạy: Cười! Thầy chẳng khi nào dụng những kẻ ấy vào nền Đạo bao giờ. Than ôi! Tiền lớn bạc nhiều, món ngon vật quý, hay xiêu lòng phàm phu. Của bất nghĩa kẻ trần còn chẳng chịu dùng thay!

                     Anh chẳng nên anh em bất nghĩa,

                     Mừng xưa nay ví giấc tương hồ.

                                                (Đạo Sử).

BẤT NHƠN

        Bất: Chẳng, không. Nhơn (nhân): Đức tính hay thương người.

        Bất nhơn, như chữ “Bất nhân 不 仁”, là không có tình cảm con người, không có lòng nhân, độc ác.

        Trong Phương Châm Hành Đạo, Đức Quyền Giáo Tông có viết: Có người thuở nay không làm điều chi bất nhơn thất đức, cứ một lòng ở thật ăn ngay; như vậy có đủ gọi là làm lành lánh dữ không?

                     Hồn nào làm bất nhơn phi nghĩa,

                     Chịu đọa đày nhiều phía gớm ghê,

                                                (Đại Thừa Chơn Giáo).

Đời rày hung bạo ngỗ ngang,

Lòng người bất chánh, dạ càng bất nhơn.

                                                (Đại Thừa Chơn Giáo).

BẤT PHÂN 不 分

        Bất: Không, chẳng. Phân: Phân biệt, phân bày.

        Bất phân là không phân biệt, hoặc không phân trần.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nói cho cùng nữa nếu an ninh trật tự không có trong gia đình thượng hạ bất phân, tôi tưởng trong gia pháp loạn hàng thất thứ thì không thể nào bảo trọng nhau được.

                     Nhơn phẩm bất phân Tiên Phật vị,

                     Đào trang thỉnh nhập cửu quyền nhiên.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Vàng thau lẫn lộn không người thổi,

                     Ngọc thạch bất phân thiếu kẻ trau.

                                                (Thơ Đức Hộ Pháp).

BẤT SANH BẤT DIỆT

        Hay “Bất sinh bất diệt”.

        Bất sanh (sinh): Không sinh ra, hay không được sinh ra. Bất diệt: Không bị mất, không chết.

        Bất sanh bất diệt, như chữ “Bất sinh bất diệt 不 生 不 滅”, là một thuật ngữ chỉ về thế giới của cái Tuyệt đối, chân thực tại, gọi là “Chân như”, trong đó không có sanh không có diệt (tử), không thành, không hoại, không trước, không sau…

        Trong quyển Giáo Lý của Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có câu: Phật Giáo gọi Đạo là Chơn Như. Có câu nói rằng : "Chơn Như giả Vũ Trụ chi bản thể, nải bất sanh, bất diệt, vô thuỷ, vô chung, bất tăng, bất giảm". Nghĩa là Chơn Như là bản thể của Vũ Trụ, chẳng sanh, chẳng diệt, không trước, không sau, chẳng thêm, chẳng bớt. Tịnh thì gọi là Chơn Như, Động thì hoá dục vạn vật (chư pháp).

Coi sự đời là mộng ảo, đoạn tuyệt sự ham muốn, trừ khử vô minh để về với chân như bất sanh bất diệt.

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BẤT TÀI 不 才

        Bất: Chẳng, không. Tài: Hay, giỏi, làm được việc mà người khác không làm được.

        Bất tài là không có tài năng.

        Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Kẻ có tài chúng ta nhìn thật quả là tài, nhưng tinh túy tài tình kia chúng ta còn để dấu mơ hồ, chúng ta không lựa chọn người đó được. Còn người có dù bất tài, nhưng không biết chúng ta có thể nói rằng: Họ gây được nhiều cái phải, cái phải ấy chúng ta có đủ chủ quyền chuyên cho được, người ấy đã cùng sống với chúng ta, cũng chia khổ với chúng ta, gieo nơi tâm não chúng ta nhiều tình cảm, ta có thể chọn lựa được hơn người kia.

                     Trách kẻ bất tài mua địa vị,

                     Căm loài vô hạnh bán thiên lương.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BẤT TÀI VÔ DỤNG

不 才 無 用

        Bất tài: Không có tài năng. Vô dụng: Không dùng vào đâu được.

        Bất tài vô dụng là nói người không có tài ba gì, lại chẳng dùng vào đâu được.

        Như: Những kẻ bất tài vô dụng không làm lợi ích gì cho chúng sanh.

                     Anh là kẻ bất tài vô dụng,

                     Tôi là người anh dũng tài ba.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

BẤT TẬN 不 盡

        Bất: Chẳng. Tận: Dứt, hết.

        Bất tận là không dứt, còn mãi mãi.

        Thánh Giáo dạy: Có vì chúng sanh mà khổ tâm hành đạo, có khó nhọc, có dãi dầu sương mơi nắng xế, mà quên bậc phẩm vô vị ở cõi trần nầy, có vày vã nẻo gai chông lần theo bước đường hạnh đức, mới có ngày vui vẻ bất tận

                        Đời vui tạm sống thừa.

                        Đạo thiêng liêng bất tận.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BẤT THÂN 不 親

        Bất: Chẳng, không. Thân: Thân cận, gần gũi.

        Bất thân là không gần gũi, tức không thân thiết, chẳng họ hàng với nhau.

        Bất thân còn có nghĩa không được tiếp xúc, gần gũi với nhau.

        Sách Nho có câu: “Nam nữ thọ thọ bất thân 男 女 授 受 不 親”, nghĩa là con trai, con gái trao và nhận vật gì, không được đụng chạm tay lẫn nhau một cách thân mật.

Nam Nữ bất thân. Nam ở Đông hiên, Nữ ở Tây hiên. Hai bên không lân cận nhau.

                                                (Thánh Ngôn HiệpTuyển).

BẤT THƯỜNG 不 常

        Bất: Chẳng, không. Thường: Luôn luôn, hằng, không biến, không đổi.

        Bất thường là không theo lệ thường, đặc biệt.

        Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Trên cõi tạm nầy, những nỗi buồn, vui, đau khổ, nhục vinh, là những đoạn trường mà khách trần, ai cũng phải trải qua từ thanh mi chí bạch phát để nung đúc tâm hồn cho tới mức siêu nhiên và những ai đã vượt qua những cảnh bất thường ấy mà lòng vẫn minh chánh, chí vẫn thanh cao đó là những người biết sống, đáng sống và đã tìm ra con đường trở về với Đấng Chí Tôn Thượng Đế.

                     Đương cơn thiên hạ được ninh khương,

                     Một trận cuồng phong đến bất thường.

                                                (Thơ Huỳnh Văn Hưởng).

BẤT TRẮC 不 測

        Bất: Chẳng, không. Trắc: Liệu lường, đo sâu cạn.

        Bất trắc là không liệu trước được. Bất trắc còn chỉ biến cố xảy đến một cách thình lình.

        Huấn từ Thượng Sanh có câu: Để khi gặp cơn bất trắc, quý vị có đủ cơn sáng suốt mà đối phó với mọi trường hợp, nhứt là gìn giữ thân danh được toàn vẹn.

                     Vận rủi đành mang cơn bất trắc,

                     Năm xui phải gặp nạn thình lình.

                                                (Thơ Thiên Vân).

BẤT TRI THẾ SỰ

不 知 世事

        Bất tri: Không biết. Thế sự: Việc đời.

        Bất tri thế sự là không biết đến việc đời, ý chỉ người tu hành không màng đến thế sự.

                     Niên ngoạt nhứt thời hữu định phân,

                     Bất tri thế sự thuỷ phong vân.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BẤT TRUNG 不 忠

        Bất: Chẳng, không. Trung: Ngay, tức hết lòng với vua, với nước.

         Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Bần Đạo kết luận: Trung, Hiếu, Nghĩa là ba tánh chất của một vì Thánh, vì cớ nên Tiên Nho buổi trước tầm hiền thì duy lựa trong ba tánh đức đó mà tìm thì ắt tìm đặng không lầm. Tại mặt thế nầy, thảng ta có gặp người như thế tức ta quyết đoán chắc hẳn là chơn linh cao trọng, chớ không phải người hèn hạ phàm phu, trái lại, kẻ nào phi ân, bạc nghĩa, bất hiếu, bất trung, là chơn linh hạ tiện đi lần đến hoàn cảnh thú hình và thú tính mà chớ.

                     Phạt những kẻ sửa ngay ra vạy,

                     Tớ phản thầy, quan lại bất trung.

                                                (Kinh Sám Hối).

BẤT VI 不 韋

        Lữ Bất Vi tên chữ là Lữ Hồng, người Dương Địch thuộc nước Tần, là một phú thương lại coi tướng giỏi, có vợ tên Châu Cơ, người nhan sắc, đang có thai ba tháng. Khi cháu của vua Tần là Dị Nhân còn làm con tin ở nước Triệu, Bất Vi thấy tướng biết sau này làm vua, về mưu với vợ, đem gả cho Dị Nhân, sau sinh ra một trai tên là Chính.

        Nhờ mưu kế của Bất Vi, Dị Nhân được trở về Tần và sau nối ngôi vua là Trang Tương Vương, phong Bất Vi làm Thừa tướng.

        Đến khi Tương Vương chết, Chính lên ngôi là vua Tần Thuỷ Hoàng Đế, tôn Bất Vi làm Tướng quốc, gọi là Trọng Phụ.

        Sau Bất Vi tư thông với Thái Hậu, sợ bị tội bèn tự vẫn chết. Lúc còn làm Thừa tướng, Lữ Bất Vi có sai các môn khách soạn bộ Lã Thị Xuân Thu, còn truyền cho đến ngày nay.

                     Phạm Lãi gặp chầu buôn bán nước,

                     Bất Vi đặng buổi đổi mua duyên

                                                (Thơ Hộ Pháp).

BÂU

        Bâu là ve áo, cổ áo, phần được may dư ra ở cổ áo để gấp xuống, mỗi khi mặc.

        Ca dao ta có câu: Nhìn nhau lệ ứa thấm bâu, Nỗi thương chưa dứt, nỗi sầu lại vương.

                     Thấy lối lành đưa qua mặt thế,

                     Nỗi lưu ly phận chẳng riêng bâu.

                                                (Đạo Sử).

BẦU

        1.- Bầu là một loại dây leo lá mềm rộng có lông mịn, quả tròn dài hay thắt co ở giữa, dùng để nấu canh ăn.

        Như: Canh bầu, bầu bí chung giàn, bầu ơi thương lấy bí cùng.

        Ca dao Việt Nam có câu: Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy là khác giống nhưng chung một giàn.

                     Bầu bí chưa ai bỏ lộn giàn,

                     Mình quê chưa ắt biết cao sang.

                                                (Đạo Sử).

                     Vô phước chịu trồng bầu ra bí,

                     Chẳng khác nào mua khỉ làm chồn.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        2.- Quả bầu già phơi khô, nạo hết ruột dùng để đựng nước, đựng rượu, hay đựng thuốc, cũng gọi là bầu.

        Như: Đai cơm bầu nước.

                     Rượu cúc một bầu trăng gió hứng,

                     Non sông dạo khắp lối đêm xuân.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

        3.- Quả bầu khô cũng được các vị Thần Tiên dùng để đựng thuốc linh đơn hay luyện thành pháp thuật, nên còn gọi là bầu linh, bầu phép hoặc hồ lô.

        Như: Bầu linh đơn, bầu hồ lô.

                    Bầu linh khổ hải đưa thiêu cạn,

                     Gậy sắt nhơn sanh chống dắt dìu.

                                                (Quyền Giáo Tông).

        4.- Bầu nghĩa rộng dùng để chỉ những thứ gì giống như cái bầu dùng để chứa đựng.

        Như: Bầu trời, bầu phong nguyệt, bầu nhựt nguyệt.

Hạc reo bay khắp dạo cùng,

Càn Khôn Thế Giái cũng chung một bầu.

                                                (Bài Mừng Thay).

Nhìn non chỉ nước làm hơn,

Mượn bầu tuế nguyệt giải hờn căn sanh.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BẦU BẠN

        Bạn: Người không phải là thân thuộc mà giao tiếp thân thiết với nhau.

        Bầu bạn, như chữ “Bè bạn”, là hai hoặc nhiều người cùng đi lại chơi thân với nhau. Như: Đi đâu anh ấy cũng có bầu có bạn, anh em bầu bạn xa gần.

        Văn tế Đức Cao Thượng Phẩm của Chức Sắc Hiệp Thiên Đài có câu: Giọt sương gieo vì trăm họ khát khao, vưng Thánh chỉ rưới ban ân võ lộ, hiến thân cho Đạo son sắc một lòng, nương bút thủ cơ tuyết sương mấy độ, đã nhiều cơn tân khổ chẳng quản đến tình nhà, dìu sanh linh từ thành thị chí thôn quê, dư mấy lúc gian truân, lần lừa theo mạch Đạo, dẫn bầu bạn vạch đường về cội cũ.

Bầu bạn lỗi câu tín nghĩa, vợ chồng quên đạo tào khương; mãng vụ chữ kim thời mà phong dời tục đổi.

                                                (Lời Tựa Thánh Ngôn).

BẦU LINH

        Bầu: Quả bầu phơi khô dùng để đựng thuốc linh đơn hay được các vị Thần Tiên luyện thành pháp thuật.

        Linh: Thiêng liêng, mầu nhiệm.

        Bầu linh, còn gọi bầu Hồ lô, là một trái bầu phơi khô, dùng để đựng thuốc linh đơn,hoặc được các vị Thần Tiên luyện thành pháp thuật.

        Như: Bầu linh của Lý Ngưng Dương, tục gọi Lý Thiết Quả ở núi Bồng Lai.

                     Gươm huệ chặt rời dây nghiệt chướng,

                     Bầu linh chất chứa lớp sầu than.

                                                (Bát Nương Giáng Bút).

                     Trút bầu linh đổ Cam lồ rưới nơi nơi,

                     Đưa gậy sắt dẹp sầu than cùng chốn chốn.

                                                (Văn Tế Tiểu Tường).

                     Riêng che đảnh Việt bầu linh đổ,

                     Gặp hội phong vân đã thuận chiều.

                                                (Thơ Cao Tiếp Đạo).

BẦU LINH GẬY SẮT

        Bầu linh: Hồ lô, bầu phép thuật. Gậy sắt: Cây gậy phép của Lý Ngưng Vương.

        Bầu linh gậy sắt là hai thứ pháp thuật của Lý Ngưng Dương, tục gọi là Lý Thiết Quả, một vị đại tiên trong Bát tiên ở núi Bồng Lai.

        Theo Đức Hộ Pháp, Đức Quyền Giao Tông Lê Văn Trung là chơn linh của Lý Ngưng Dương, nên Bầu linh, gậy sắt cũng là pháp bửu của Đức Quyền Giáo Tông.

                     Bầu linh khổ hải đưa thiêu cạn,

                     Gậy sắt nhơn sanh chống dắt dìu.

                                                (Thài Quyền Giáo Tông).

                     Bầu linh gậy sắt quảy du Nam,

                     Nương bóng Từ bi đến cõi phàm.

                                                (Thơ Đức Hộ Pháp).

                     Bầu linh gậy sắt ông an thế,

                     Chày Gián Xử Ma tớ giúp đời.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

BẦU NƯỚC ĐAI CƠM

        Bầu nước: Cái bầu đựng nước. Đai cơm: Cái giỏ đựng cơm.

         Bầu nước đai cơm, bởi chữ “Đan tự biều ẩm 簞 食 瓢 飲”, tức là giỏ cơm bầu nước, ý nói đơn giản, đạm bạc trong sự ăn uống.

        Bầu nước đai cơm chỉ về Nhan Uyên, người học trò giỏi của Đức Khổng Tử là người chỉ thích sống cuộc đời giản dị, không sợ khổ cực. Một giỏ cơm, một bầu nước cũng đủ làm cho Nhan Hồi vui với Đạo.

        Xem: Đai cơm bầu nước.

                     Bầu nước đai cơm nằm chiếu đất,

                     Co tay làm gối đắp màn Trời.

                                                (Thơ Thái Đến Thanh).

                     Bầu nước đai cơm vui thú vị,

                     Thung dung nhàn lạc cảnh Đào nguyên.

                                                (Thơ Thái Quốc Thanh).

BẦU NHAN

        Bầu: Quả bầu già phơi khô, nạo hết ruột dùng để đựng nước, đựng rượu, hay đựng thuốc.

        Nhan: Nhan Uyên, học trò giỏi của Đức Khổng tử.

        Bầu Nhan, hay “Bầu Nhan Uyên”, là bầu nước của Nhan Uyên, dùng để chỉ cảnh nghèo.

        Do tích Nhan Uyên là người nước Lỗ, đời Xuân Thu, tự là Tử Uyên, còn gọi là Nhan Hồi 顏 回, học trò giỏi của Đức Khổng Tử.

        Nhan Uyên là người thông minh, học một biết mười, lại siêng năng, cần mẫn. Nhan Uyên không ngại nghèo khổ, sống trong cảnh hàn vi mà bao giờ cũng vui với “Giỏ cơm bầu nước”.

        Trong Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu có câu: Quản bao thân trẻ dãi dầu, Mang đai Tử Lộ, quảy bầu Nhan Uyên.

                     Vui quảy bầu Nhan đai Tử Lộ,

                     Gió trăng quen thú, cảnh non Bồng.

                                                (Thơ Cao Quỳnh Cư).

BẦU NHIỆT HUYẾT

        Bầu: Dùng để chỉ những thứ gì giống như cái bầu dùng để chứa đựng.

        Nhiệt huyết 熱 血: Chỉ người có lòng hăng hái, thích làm việc nghĩa.

        Bầu nhiệt huyệt là chỉ tấm lòng hăng say thích làm những việc nghĩa.

                     Nặng bầu nhiệt huyết cưu mang,

                     Dở dang lý tưởng lỡ làng giấc mơ!

                                                (Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

BẦU PHONG NGUYỆT

        Bầu: Những cái gì giống như trái bầu dùng để chứa đựng. Phong nguyệt 風 月: Trăng và gió.

        Bầu phong nguyệt, do câu thơ La Hồng Tiên viết: Thanh phong minh nguyệt nhất thi nang 清 風 明 月 一 詩 囊, nghĩa là gió mát trăng thanh thơ một túi.

        Bầu phong nguyệt hay túi phong nguyệt (túi gió trăng), dùng để tả người phong lưu tài tử, chỉ mang theo người gió mát trăng thanh để làm chất liệu cho thi hứng.

                     Một bầu phong nguyệt say ngơ ngáo,

                     Đầy túi thơ văn đổ chứa chan.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Một bầu phong nguyệt say mùi thú,

                     Ngàn dặm quan san nhặt tiếng rìu.

                                                (Thơ Thuần Đức).

                     Một bầu phong nguyệt chừ vui thú,

                     Hứng giọt Ma ha rải phép lành.

                                                (Thơ Tiếp Đạo).

BẦU TIÊN

        Bầu: Quả bầu tròn, dùng để chứa đựng các vật khác. Tiên: Thần Tiên.

        Bầu tiên là cái bầu của các vị Tiên dùng để chứa rượu Tiên, thuốc linh đơn hay nước cam lộ. Ở đây, bầu Tiên dùng để chỉ bầu phép của các vị Tiên.

                     Cao Đài đứng chủ cả sanh linh,

                     Bến khổ bầu Tiên rưới thế tình.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BẬU

        Bậu là tiếng gọi người tiếp chuyện với mình, khác giới tính, tỏ ý thân mật, thương mến.

        Người xưa thường tự xưng là “qua”, kêu người đối thoại là “Bậu”, trong quan hệ vợ chồng hay người yêu.

        Ca dao có câu: Bần gie đóm đậu sáng ngời, Lỡ duyên tại bậu, trách Trời sao nên.

Nghèo hèn xin bậu chớ than,

Rảnh đồng công mối nợ, anh mua lụa hàng may cho".

                                                (Trích Thuyết Đạo Hộ Pháp).

        Bé là nhỏ, kém, ít tuổi. Như: Quả bé, chữ bé như kiến, cá lớn nuốt cá bé, thuở bé thơ.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Từ Người (chỉ Nữ Đầu Sư Hương Thanh) đã để tâm ham mộ Đạo Phật không biết có quyền năng lạ lùng của Đức Chí Tôn tiền định hay chăng, mỗi khi niệm câu chú của Phật để tồn tại, thì Đức Chí Tôn Ngài đứng trong nhà Phật, gọi là Tam Thiên Đại Thiên Thế Giái, Đức Chí Tôn là Phật vị nên Bà đã thương lắm, thương một cách nồng nàn.

                     Lứa đôi từ hiệp công lo,

                     Phải ở sao cho trọn thiếp trò.

                                                (Đạo Sử).

                     Buổi thơ dầu buổi vui cười,

                     Đừng quên miệng thốt lời tục tĩu.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BÉ BỎNG

        : Rất ít tuổi, non trẻ.

        Bé bỏng là nhỏ dạy, ý chỉ bé và còn non yếu.

        Như: Bàn tay còn bé bỏng, sang năm đã thêm một tuổi thì còn bé bỏng gì nữa.

                     Còn bé bỏng nghề nông thưa thớt,

                     Lại ngây ngô hời hợt việc nhà.

                                                (Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

BÉ THƠ

        : Non trẻ, rất ít tuổi. Thơ: Non, nhỏ.

        Bé thơ chỉ đứa bé còn nhỏ và thơ dại.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Đứa bé thơ kia học ai trước hết? Học cha mẹ nó. Trí óc non nớt của nó chưa có hình trạng gì, bởi lúc sơ sanh không có điều gì ô trược dính vào chung quanh nó, hỏi nó trông vào ai, dòm ai. Dòm cha bắt chước cha, dòm mẹ bắt chước mẹ, dòm anh em bắt chước anh em.

                     Hễ bé thơ tập vào bái ra chào,

                     Quyền cha mẹ, Trời cao kia dám sánh.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Buổi bé thơ dầu buổi vui cười,

                     Đừng quen miệng thốt lời tục tĩu.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        1.- Bè là tre, nứa, cây gỗ ghép lại thả trôi trên mặt nước, hoặc đám cây cỏ kết lại chảy theo dòng sông.

        Như: Bè gỗ, thả bè tre theo dòng nước, bè rau muống, bè lục bình tấp vào bờ.

Lúc giăng lưới khi đóng nò,

Mảng lo tàu chặn, nhẫng dò trôi.

                                                (Ngụ Đời).

Nhiều cây mới kết nên ,

Anh em chung trí đồng hè nhau tu.

                                                (Đại Thừa Chơn Giáo).

        2.- Bè là lũ, phe đảng, tức một nhóm người kết với nhau. Chữ “Bè” thường dùng để chỉ một nhóm người làm việc không chính đáng.

        Như: Bè lũ, bè đảng, bè du côn, bè nịnh bợ.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Chúng ta thấy một gia đình kéo cả về Tòa Thánh là sống được. Ấy là nhờ sự chăm nom nuôi dưỡng của Hội Thánh vì khi mới về Tòa Thánh có người không có một cái chén ăn cơm, làm lụng ít lâu rồi cũng sống được.

                     Đừng kể nể kẻ hơn người hiếp,

                     Xúm xích nhau chung hiệp làm .

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BẺ

        Bẻ là dùng sức bằng tay làm cho rời ra, cho gãy. Như: Bẻ đôi chiếc đũa, tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu.

        Thánh giáo Thầy có dạy: Nếu như ai bẻ hoa ấy nửa chừng thì là sát một kiếp sanh không cho biến hoá.

                     Kìa cầm điểu bẻ cành kết ổ,

                     Nọ thú trùng moi lỗ làm hang.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

                     E ra nhiều thiếp nhiều hầu,

                     Rồi tham bẻ lựu, bỏ đào bơ vơ.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BẺ BAI

        Bẻ: Bác đi, cãi lại cho là không phải.

        Bẻ bai là một từ xưa, có nghĩa lả lướt, ngả nghiêng, du đương, réo rắt.

        Bẻ bai còn có nghĩa là vừa chê bai vừa bắt bẻ.

                     Chơn thật bẻ bai ra xảo quyệt,

                     Trên đời kẻ dữ hoá làm lành.

                                                (Đạo Sử).

BẺ GÃY CHỮ ĐỒNG

        Bẻ gãy: Làm cho đứt lìa.

        Chữ Đồng: Do câu “Đồng tâm kết 同 心 結” là một sợi dây thắt lưng có hai dải lụa buộc lại với nhau, dùng để ghi chép lời thề ước. Sau thường dùng để nói hai vợ chồng kết hợp cùng một lòng với nhau

        Bẻ gãy chữ đồng ý nói vợ chồng bị gãy gánh, tức một trong hai có người chết.

Đã đành bẻ gãy chữ đồng,

Hiển linh chứng chiếu tấm lòng tiết trinh.

                                                (Kinh Thế Đạo).

Đã đành bẻ gãy chữ đồng,

Chia đôi thiếp xóm chàng đồng không hay.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BẺ LIỄU

        Bẻ: Dùng tay làm cho rời ra, cho gãy. Liễu: Loại cây có cành mềm, lá rủ xuống thướt tha.

        Bẻ liễu, do chữ “Chiết liễu 折 柳”, tức là bẻ cành liễu.

        1.- Liễu là loại cây mềm yếu, thướt tha nên thường được ví với người phụ nữ.

        Bẻ liễu ý nói lấy người con gái làm vợ.

                  Mảng trong thấm nghĩa nặng tình,

                  Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

        2.- Theo sách Tam Phụ Hoàn Đồ chép: Nơi Bá kiều, một chiếc cầu gần Kinh đô Tràng An, người ta đưa tiễn nhau thường đến đó bẻ liễu tặng làm roi ngựa.

        Cho nên sau dùng chữ “Bẻ liễu” (chiết liễu) để chỉ sự tiễn biệt.

                     Đàn Văn khắng khít tự bao ngày,

                     Bẻ liễu bùi ngùi tiến bước nay.

                                                (Thơ Chơn Tâm).

                     Trường đình bẻ liễu đau từng đoạn,

                     Tâm sự vò tơ cuộn một nùi.

                                                (Thơ Chơn Tâm).

BẼ BÀNG

        Bẽ: Thường nói bẽ mặt, tức là thẹn, ngượng, vì cảm thấy bị người ta cười chê.

        Bẽ bàng là đáng phải lấy làm xấu hổ, thẹn thùng vì cảm thấy bị người ta chê cười.

                     E sương, ngại gió thân mòn mỏi,

                     Úa nhị, xàu hoa chịu bẽ bàng.

                                                (Thơ Thuần Đức).

                     Đối thế bẽ bàng cơ nghiệp kém,

                     Theo thời ẩn nhẫn tháng ngày qua.

                                                (Thơ Hoài Tân).

BÉN

        1.- Bén là sắc, dễ cắt, như gươm bén, dao bén.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Nhờ lẽ chơn thật của nó, không có lưỡi gươm bén nào trị tinh thần đặng, thì không có lực lượng nào đè nén đặng.

Giáo gươm bén nhọn tư bề,

Chém đâm máu chảy tràn trề ngục môn.

                                                (Kinh Sám Hối).

                     Đừng hờn cha mạnh cú nặng đòn,

                     Ấy tài diệu cha trui con ra bén.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        2.- Bén là bắt lửa, cháy.

        Như: Bén lửa, bén hương lửa, cơm bén, lửa gần rơm lâu ngày cũng bén.

                     Lửa hương đã bén công Như Tử,

                     Quyền quý thêm xuê phận Khổng Trình.

                                                (Bát Nương Giáng Bút).

        3.- Bén còn có nghĩa là ưa nhau, hợp nhau, dính bắt lấy nhau.

        Như: Cây đã bén rể, vợ chồng bén hơi, đã bén mùi mắm tôm, bén duyên.

                     Nghĩa keo sơn thoạt bén thoạt ưa,

                     Duyên kim cải càng quen càng thấm.

                                                (Tuý Sơn Vân Mộng).

                     Riêng đây đã bén mùi dưa muối,

                     Ai đó còn nuôi chí hộc hồng.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BÈN

        1.- Bèn là mới, liền ngay sau một việc nào đó, nhằm đáp ứng một yêu cầu.

        Như: Tôi giận quá bèn bỏ đi, nhìn thấy cái dáng ưng ngay bèn mua một cặp.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Bần Đạo không ngần ngại để trọn đức tin nơi quyền năng Thiêng Liêng, bèn tỏ hết công việc Đạo thì Đức Ngài (Khai Pháp) hứa và nguyện cố một đời là huỷ cái đời giàu sang vinh hiển để nạp mình tìm nơi cửa Đạo.

                     Chừ lâu ta mới hỏi chừng,

                     Sau trước nàng bèn bày tỏ.

                                                (Túy Sơn Vân Mộng).

        2.- Bèn là tai đài, vành cánh của bông hoa.

        Như: Chưng bông sen không đổ nước vào bình chừng một đêm là rã bèn.

                     Thơm tho là Chín phẩm Toà sen,

                     Sao đặng về sau núp dưới bèn.

                                                (Thơ Bảo Pháp).

BÉO

        Béo là nhiều mỡ, to mập, trái với gầy.

        Như: Dưỡng lợn cho béo, thừa chất béo trong cơ thể, đục nước béo cò.

                     Vợ tốt rượu ngon và thịt béo,

                     Ham ưa vật chất chẳng hề kiêng.

                                                (Đạo Sử).

                     Khiến trăm mưu toan đục nước béo cò.

                     Lòng muôn thế đắn đo sanh chước độc.

                                                (Giác Mê Khải Ngộ).

BÈO

        Bèo là một loại cây sống nổi trên mặt nước, thường làm thức ăn cho lợn, cá, hoặc làm phân xanh.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chỗ phải Đạo thì tới, nơi vô đạo thì lánh xa, xem công danh như dép rách, nhắm phú quý tợ bèo trôi, sắc đẹp chẳng động được lòng, cảnh nguy không thay được chí.

                     Dòng Tương chảy thân bèo trôi nổi,

                     Chẳng ai thương chữa lỗi binh lời.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).                                  Ngược gió thuyền đầy cơn gió dập,

                     Xuôi dòng nước lớn giạt bèo trôi.

                                                (Thơ Thượng Sanh).

BÈO BỌT

        Bèo: Một loại cây sống nổi trên mặt nước. Bọt: Những đóm bong bóng nhỏ kết lại nổi trên mặt nước.

        Bèo bọt là cánh bèo và bọt nước.

        Bèo là loại cây trôi nổi lênh đênh trên mặt nước, không bến không bờ. Bọt nước cũng trôi trên sông, dễ tan vỡ. Vì vậy, chữ bèo bọt dùng để chỉ sự lưu lạc không định nơi và không bền bỉ.

Đòi phen lúc biến khi dời,

Thân như bèo bọt giữa vời linh đinh.

                                                (Kinh Thế Đạo).

                     Mảng đeo đai hai chữ vận thời,

                     Như bèo bọt nổi trôi giòng khổ thuỷ.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Mảnh thi phàm đã dễ chi từ,

                     Trong cuộc thế thân như bèo bọt.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

BÈO TẠT

        Bèo: Loại cây nổi và trôi trên mặt nước. Tạt: Giạt, trôi nổi lềnh bềnh.

        Bèo tạt là cánh bèo bị dòng nước giạt, hình ảnh này dùng để chỉ con người bị cảnh đời đưa đẩy phải chịu số phận lênh đênh không nơi nương tựa.

        Xem: Hoa trôi bèo giạt.

                     Hỏi khách đường xưa ai lấp ngõ,

                     Nên thân bèo tạt vịnh sông Ngâu.

                                                (Đạo Sử).

BÈO MÂY

        Bèo: Loại cây nổi và trôi trên mặt nước. Mây: Hơi nước bốc lên trời thành từng đám.

        Bèo mây là bego trôi nổi lênh đênh trên mặt nước, không bờ bến, còn mây lang thang bay trên bầu trời, chẳng bao giờ dừng lại.

        Do vậy, chữ “Bèo mây” dùng để chỉ thân phận con người như cánh bèo, đám mây trôi nổi, lưu lạc, không nơi nương tựa.

                     Đợi buổi bèo mây vầy một hội,

                     Tương phùng vui cạn chén liên hoan.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BÈO NƯỚC

        Bèo: Loại cây nổi và trôi trên mặt nước. Nước: Vật thể lỏng, ở dưới sông, suối.

        Bèo nước, ý nói bèo nổi lênh đênh, nước chảy không ngừng, dùng để chỉ thân phận con người trôi nổi, bềnh bồng, khi hợp khi tan như cánh bèo, dòng nước.

                     Trời già đành đoạn nợ ba sinh,

                     Bèo nước xẻ hai một gánh tình.

                                                (Đạo Sử).

BÈO NƯỚC TÁI NGỘ

        Bèo nước tái ngộ. do câu “Bình thuỷ tương phùng 萍 水 相 逢”, dùng để chỉ việc không hẹn tình cờ mà gặp.

        Thơ Vương Bột có câu: Quan san nan việt, thuỳ bi thất lộ chi nhân? Bình thuỷ tương phùng, tận thị tha hương chi khách 關 山 難 越, 誰 悲 失 路 之 人. 萍 水 相 逢, 盡 是 他 鄉 之 客, nghĩa là quan san khó vượt, ai xót cho người bất đắc chí. Bèo nước gặp nhau, toàn là do mỗi người một nơi.

        Xem: Bình thuỷ tương phùng.

                     Bèo nước biết chăng còn tái ngộ…?

                     Bồi hồi đêm nhớ với ngày thương.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BÈO NƯỚC TAN HIỆP

        Bèo nước: Cánh bèo và dòng nước. Tan hiệp (hợp): Khi tan ra lúc hiệp lại.

        Bèo nước tan hiệp là nói cánh bèo và dòng nước khi hiệp lại, lúc tan ra, hay khi tan ra lúc hiệp lại, dùng để chỉ sự bềnh bồng, linh đinh, không có ngừng nghỉ.

        Bèo nước tan hiệp ý muốn nói thân phận trôi nổi khi hợp khi tan như cánh bèo dòng nước.

                    Bèo nước lạ gì tan với hiệp,

                     Anh em nào khỏi nhớ rồi mong.

                                                (Thơ Chơn Tâm).

BÈO TRÔI

        Bèo: Một loại cây sống nổi trên mặt nước. Trôi: Bị nước đưa đi.

        Bèo trôi là bèo bị cuốn trôi theo dòng nước, chỉ sự bấp bênh, trôi nổi, không có nơi định hướng.

        Xem: Thân bèo trôi nổi.

                     Ngược sóng thuyền đầy cơn gió dập,

                     Xuôi dòng nước lớn giạt bèo trôi.

                                                (Thơ Thượng Sanh).

BẸO

        Bẹo là chưng ra, đưa ra để khêu gợi, kích thích lòng ham muốn của người khác.

        Như: Ăn mặc hở hang để bẹo mắt con trai, nó còn đứng lầm bầm để bẹo gan mầy.

                     Hình ma bóng quỷ trêu cay mắt,

                     Cổ quái trí tà bẹo xốn ngươi.

                                                (Thiên Thai Kiến Diện).

BÊ THA

        : Bê bết, kém đến mức tồi tệ, đình đốn, không tiến lên được. Tha: Thối tha, tức hư hỏng, truỵ lạc.

        Bê tha là ham mê chơi bời, sống một cách phóng đãng, không cần thiết đến công việc, mất nhân cách.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Theo trào lưu tiến bộ của văn minh vật chất hiện tại, nhứt là trước hiểm hoạ của lằn sóng vô thần quá khích, con người dù là hạng trí thức dễ bị lôi cuốn vào cảnh bê tha truỵ lạc, hoặc bị đưa đẩy vào vòng lợi danh đen tối, làm tôi tớ cho thế lực kim tiền, bán rẻ lương tâm, không còn kể nhơn nghĩa và lẽ phải nữa.

                     Ví được lang quân chiều chuộng lắm,

                     Chữ tòng khuyên gắng chớ bê tha.

                                                (Thơ Chơn Tâm).

BÊ TRỄ

        : Bề bộn, không dứt khoát. Trễ: Chậm, muộn, không kịp kỳ hẹn.

        Bê trễ là công việc bị chậm trễ, ứ đọng lại, do không trông nom gì đến.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: Phải, như các Giáo Hữu nào bê trễ về phận sự và không quản đến lời Thầy thì con hội chư Thánh dâng sớ lên cho Lý Bạch phán đoán, nghe!

                     Mùi đạo đức chớ ơ hờ mà bê trễ,

                     Cuộc thế tàn lóng nghe tiếng dế cất giọng nam ai.

                                                (Giác Mê Khải Ngộ).

BẾ

        1.- Bế là ôm, ẵm, tức dùng tay đỡ và giữ người hay vật sát vào thân mình.

        Như: Bồng bế, mẹ bế con vào lòng, thương mẹ thì bế lấy con.

        Trong Phương Tu Đại Đạo có câu: Nâng niu con từ bé, mắt ngó chẳng mỏi tròng; dầu con đã nên mụ nên ông, cũng còn nhớ bế bồng khi bé tíu.

                     Đây còn nỗi bế bồng thêm trẻ,

                     Hễ giao tình chẳng lẽ không con.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

        2.- Bế 閉 là đóng lại. Như: Bế môn tạ khách, bế quan toả cảng, bế môn tu trai.

        Thánh giáo Đức Thích Ca Như Lại kim viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát có dạy: Vốn từ Lục Tổ thì Phật giáo đã bị bế lại, cho nên tu hữu công mà thành thì bất thành.

                     Bế ngũ quan, không kiêng tục tánh,

                     Diệt lục trần, xa lánh phàm tâm.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BẾ ĐỊCH TRỢ HOANG

閉 糴 助 荒

        Bế: Bế là đóng cửa. Địch: Mua thóc ở xử ngoài mang về xứ mình (nhập cảng). Bế địch: Đồng nghĩa với bế quan, đóng ải quan, không để cho lúa gạo nhập cảng.

        Trợ hoang: Hoang là thất mùa lúa. Trợ hoang: Trợ giúp nạn thất mùa.

        Bế địch trợ hoang ý nói dân chúng bị thiên tai mất mùa, không có đủ lúa gạo để ăn, cần phải mua lúa gạo từ nước ngoài để cứu đói, nhưng có những người có thân thế lớn làm cho việc nhập cảng gạo bị ngưng trệ để đầu cơ tích trữ, giá lúa gạo cao lên, độc quyền bán ra hầu thâu lợi.

Hành người bế địch, trợ hoang,

Thừa năm hạn đói mưu toan bức nghèo.

                                                (Kinh Sám Hối).

BẾ NGŨ QUAN 閉 五 關

        Bế: Khép, đóng lại. Ngũ quan: Năm giác quan.

        Bế ngũ quan tức là khép lại năm giác quan của con người. Năm giác quan đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, da thịt của thân con người.

        Theo Phật, năm giác quan nầy cùng với ý của con người thì thành lục tặc, tức sáu con giặc thường quấy rối tâm con người.

        Bế ngũ quan tức khép năm giác quan lại không cho năm trần cảnh là sắc đẹp, âm thanh, mùi thơm, đồ ngon, mềm mại của da thịt cám dỗ tâm con người.

                  Bế ngũ quan, không kiêng tục tánh,

                  Diệt lục trần, xa lánh phàm tâm.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BẾ TẮC 閉 塞

        Bế: Đóng lại, lấp tắc lại. Tắc: Lấp, không thông.

        Bế tắc là ngăn trở không được thông. Nghĩa rộng: Gặp trở ngại lớn, không có lối thoát.

        Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Là vì cái sáng suốt thiêng liêng ở nơi mình không khêu lên lại làm cho nó lu mờ và bị vùi lấp cho đến chỗ bế tắc.

Thời cơ đang rối rắm, cuộc cờ nước nhà đã lâm vào lối bế tắc không thế thắng được.

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

BỀ

        1.- Bề là bên, chiều, tức chỉ một trong các phía chung quanh, giới hạn phạm vi của một vật, bề dài, bề dưới.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, dạy về cách lạy, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Lạy là gì? Là tỏ ra bề ngoài lễ kỉnh trong lòng.

Giáo gươm bén nhọn tư bề,

Chém đâm máu chảy tràn trề ngục môn.

                                                (Kinh Sám Hối).

                     Bề trong ngay thẳng tỏ bề ngoài,

                     Miệng chánh thì đời vốn trái tai.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

        2.- Bề còn dùng để chỉ khía cạnh, phương diện của sự việc. Như: Khổ cực trăm bề, lo bề nhơn đạo.

        Dạy về tang lễ cho Ngài Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương, Thánh giáo Thầy có câu: Còn việc an táng nó, các con cũng nên lưu ý chung với nhau mà lo bề nhơn đạo của các con cho toàn.

                     Xong bề nhơn đạo tua gìn trước,

                     Trước cửa không rồi mối đạo thông.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Làm bên gái mẹ cha nghi bụng,

                     Sợ khó bề lấy thúng úp voi.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BỀ THẾ

        Bề: Khía cạnh, hay phương diện của sự việc. Thế: Sức mạnh ảnh hưởng, quyền lực.

        Bề thế là quy mô, có phạm vi rộng lớn. Bề thế còn nghĩa là có thế mạnh, tức thế lực do địa vị mà có.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Thật không có chơn linh nào dưới thế gian nầy không muốn tu. Có kẻ đổ thừa tại đời sống đa đoan, nào vợ, nào con, nào của cải, nào tiền bạc, nào ruộng nương, đổ thừa thôi đủ thứ, cả đến chức tước quyền hành. Muốn tu ngặt không có bề thế tu đặng. Sự thật cũng có nhiều chơn linh muốn tu; thật tâm muốn mà không làm được.

                     Hễ nghèo ngặt tính ra bề thế,

                     Ngồi đầu đường quạt trà quế kiếm tiền.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BỂ

        1.- Bể là vỡ ra, rơi ra từng mảnh. Như: Bể đầu vỡ sọ.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Mỗi cái gì mình làm được dầu nó là vật vô tri vô giác, nếu có ai đập bể hoặc làm hư hao mình còn giận, còn đau đớn thay, huống chi với tình mẹ con biết bao nhiêu giá trị!

                     Nhàn trung kiểm điểm sự bình sanh,

                     Gương bể chưa ai kết đặng lành.

                                                (Đạo Sử).

                     Già răng rụng cắn cơm không bể,

                     Dâu kiếm phương nhai thế đút mồi.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        2.- Bể, cũng gọi là “Biển”, là một khoảng rộng có nước mặn trên bề mặt trái đất.

        Như: Bờ bể, vẫy vùng bốn bể.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chớ có cái hình thức rườm rà, nhảy múa lăng xăng, có khi được tiền rừng bạc bể mà hành động quá nông nổi, tinh thần lại quá kém suy, không có một phương hướng nhất định làm chuẩn đích, thử hỏi một nền Đạo như thế có được vinh diệu và có đủ uy tín đối với đại chúng không?

                     Dòm lại nỗi nắng mưa sự thế,

                     Cảm giống nòi giữa bể sóng xao.

                                                (Nhàn Âm Đạo Trưởng).

BỂ ÁI

        Bể (biển): Một khoảng rộng có nước mặn trên bề mặt trái đất. Ái: Yêu, thương.

        Bể ái hay biển ái, do chữ “Ái hải 愛 海”, hoặc “Ái hà 愛 河”, là chữ của nhà Phật, dùng để chỉ tình yêu mênh mông như sông biển, làm cho người trần thế bị chìm đắm không thoát được.

         Trong quyển Thiên Đạo, hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Người minh triết là người đã đạt được Tâm hư không. Tâm hư không là dứt bỏ được phàm phu tục tánh, nguồn ân bể ái, diệt hết thất tình lục dục, được tánh Phật lòng Tiên, cư trần bất nhiễm trần, lòng trung như vầng nhựt nguyệt, dốc chí dấn thân vào sông mê bể khổ cứu vớt người ra khỏi mê tân, chẳng quản gian truân, coi sự sanh tử nhẹ như mảy lông, miễn giải thoát chúng sanh khỏi vòng hắc ám, dầu phải muôn cay ngàn đắng cũng không thối chí ngã lòng.

                     Nghiệt cay khéo diễn trò nhân sự,

                     Bể ái xui nên chẳng thuận dòng.

                                                (Thơ Tiếp Đạo).

                     Nguồn ân để dấu thương nồng đượm,

                     Bể ái nêu gương hạnh chuốt trau.

                                                (Thơ Thượng Tuy Thanh).

BỂ BÌNH LÝ UYÊN

        Bể bình: Bức bình phong của Đậu Nghị có vẽ hình chim sẻ để tuyển lựa chồng cho người con gái bị bể nát.

        Lý Uyên: Tên của vua Cao Tổ đời nhà Đường bên Trung Quốc.

        Bể bình Lý Uyên ý muốn nói mối tình duyên của vợ chồng bị gãy đổ.

        Do tích Đậu Nghị muốn kén chọn một chàng rể, bèn vẽ chim sẻ nơi bức bình phong, nếu ai bắn trúng vào mắt chim sẻ thì được gả con gái cho. Lý Uyên tìm đến bắn trúng đích và được vợ là nàng Đậu thị. Sau Lý Uyên lập nên nhà Đường, được tôn là Đường Cao Tổ, phong Đậu thị làm Hoàng hậu.

Cũng như thiếp nặng khối tình,

Gãy trâm Lương Ngọc, bể bình Lý Uyên.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BỂ DÂU

        Bể (biển): Một khoảng rộng có nước mặn trên bề mặt trái đất. Dâu: Một loài cây trồng bằng cành, lá hình tim, dùng để nuôi tằm.

        Bể dâu hay biển xanh, do câu: “Thương hải tang điền 蒼 海 桑 田”, tức là biển xanh hoá thành ruộng dâu, chỉ việc thay đổi lớn lao.

        Theo Thần Tiên Truyện, cứ ba mươi năm thì có một cuộc thay đổi, biển xanh hoá thành ruộng dâu.

        Xem: Tang Hải hoặc Thương hải tang điền.

                  Thấm thoát đời qua cuộc bể dâu,

                     Ham vui chỉ chác cuộc mua sầu.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Buộc ràng túng tíu cõi Nam Châu,

                     Trị loạn vần xây cuộc bể dâu.

                                                (Đạo Sử).

BỂ HẸN

        Bể (biển): Vùng nước mặn rộng lớn trên bề mặt trái đất. Hẹn: Thề hẹn, ước hẹn.

        Bể (biển) hẹn, do câu “Non thề bể hẹn”, ý chỉ việc thề hẹn của đôi trai gái hay vợ chồng trước sự chứng giám của núi non và sông biển.

                     Khối thảm chất tràn trề bể hẹn,

                     Giọt đau thương quá chén hiệp phu.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BỂ HOẠN

        Bể (biển): Vùng nước mặn rộng lớn trên bề mặt trái đất. Hoạn 宦: Làm quan.

        Bể hoạn, bởi chữ “Hoạn hải 宦 海”, chỉ chốn quan trường, hay chỉ con đường làm quan.

        Người xưa thường ví cuộc đời ra làm quan cũng như chiếc đò đi giữa biển cả mênh mông, gặp nhiều sóng gió gian truân. Vì thế, người ta gọi đường ra làm quan là “Biển hoạn”.

                     Bể hoạn trong theo làn sóng bạc,

                     Cánh bằng cao lướt dặm mây xanh.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BỂ KHỔ

        Bể (biển): Vùng nước mặn rộng lớn trên bề mặt trái đất. Khổ: Đau đớn, vất vả.

        Bể khổ, do chữ “Khổ hải 苦 海”, của nhà Phật cho rằng đời sống của con người ở thế gian do dục vọng, tham ái mà làm cho khổ não vô cùng tận, không có giới hạn nào cả, mênh mông như bể.

        Kinh Pháp Hoa có câu: Ngã kiến chư chúng sinh, một tại ư khổ hải 我 見 諸 眾 生, 沒 在 於 苦 海, nghĩa là ta thấy các chúng sanh chìm ngập nơi bể khổ.

        Xem: Khổ hải.

                     Khá từ bỏ xa dòng bể khổ,

                     Diệt trần tình Cam Lộ tẩy nhơ.

                                                (Kinh Thế Đạo).

                     Mấy kẻ xét mình tâm tự cải,

                     Thân danh bể khổ mặc buông trôi.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Vui vớt sanh linh nơi bể khổ,

                     Vui Trời rưới khắp đủ ân Thiên.

                                                (Đạo Sử).

BỂ HẸN NON THỀ

        Bể hẹn: Chỉ biển mà hẹn ước. Non thề: Chỉ núi mà thề nguyền.

        Bể hẹn non thề, bởi chữ “Hải thệ sơn minh 海 誓 山 盟”, tức là chỉ bể mà hẹn ước, chỉ núi mà thề nguyền.

        Nói việc trai gái thề nguyền, hẹn ước nhau trước núi và biển giữ mối duyên keo sơn, bền chặt.

        Xem: Hải thệ sơn minh.

                     Sáng trưng bể hẹn tình lai láng,

                     Rực rỡ non thề vẻ tốt tươi.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BỂ THÁNH

        Bể (biển): Vùng nước mặn rộng lớn trên bề mặt trái đất. Thánh: Thánh Hiền.

        Bể Thánh, do câu “Rừng Nho bể Thánh” là chỉ cái học của Thánh Hiền ngày xưa rộng lớn như biển cả.

        Ca dao ta có dâu: Rừng Nho bể thánh khôn dò, Nhỏ mà không học lớn mò sao ra.

                     Khuyên lòng khá niệm vài câu kệ,

                     Bể Thánh nghiêng tai lóng tiếng đờn.

                                                (Đạo Sử).

BỂ TRẦN

        Bể (biển): Vùng nước mặn rộng lớn trên bề mặt trái đất. Trần: Cõi trần, tức cõi thế gian.

        Bể trần, theo như lời Phật dạy cõi trần như một cái bể khổ mênh mông mà con người bị đắm chìm trong ấy.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Đáng kính phục là, mặc dù bực tức, nhưng nghĩ lại thương nền Đạo, thương bao nhiêu nhơn sanh còn chịu khổ nơi bể trần, Ngài (Tiếp Pháp) cũng dần dần khuây lãng, để hết tâm trí, gắng công lo phận sự.

        Xem: Biển trần.

                     Bể trần chua chát không nên đắm,

                     Mùi đạo ngọt ngào khá nếm say.

                                                (Thơ Thông Quang).

BỄ

        Bễ là ống thụt dẫn không khí vào làm cho lửa cháy, đồ dùng của thợ rèn.

        Như: Thợ rèn ngồi thụt bễ, anh thợ rèn kéo bễ thổi lò, bễ lò rèn.

                     Chồng có tài theo phía thợ rèn,

                     Vợ phải tập cho quen thổi bễ.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BỆ

        Bệ là bậc thềm cao lót bằng gỗ, xây bằng gạch hay bằng đá, dùng đặt tượng Phật, bàn thờ hay để ngai vua.

        Như: Bệ thờ Phật, vua ngự trên bệ ngọc, bệ rồng, bệ hạ, bệ kiến, chín bệ.

                     Biên cương buổi nọ Tàu lui gót,

                     Chín bệ ngày nay quỷ nhảy đầm.

                                                (Đạo Sử).

                     Nghĩa khí đã lừng trên chín bệ,

                     Ân uy còn tạc dưới ba quân.

                                                (Thơ Đào Công).

BỆ NGỌC

        Bệ: Chỗ cao để thờ, để tượng, hoặc để ngai vua ngồi. Ngọc: Châu ngọc.

        Bệ ngọc, bởi chữ “Ngọc giai 玉 階” tức bực thềm cao bằng ngọc, chỉ ngôi vua ngự.

        Trong Tôn giáo Cao Đài, bệ ngọc dùng để chỉ ngôi Chí Tôn hoặc chỉ nơi cao quý và sang trọng.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Người tại sao sanh ra nằm trên đống vàng, giàu có sang trọng, thong dong, còn người đẻ ra trong cảnh hàn vi cơm không đủ bữa, còn người đẻ ra ngồi trên ngai vàng bệ ngọc, người lại đẻ ra nơi xó bếp chuồng gà.

                     Hai lẽ văn tài đồng đức tánh,

                     Chẳng ngồi bệ ngọc cũng lầu son.

                                                (Đạo Sử).

                     Nhượng vinh huê trong buổi sang giàu,

                     Khuyên học khách ăn rau chê bệ ngọc.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BÊN

        1.- Bên là cạnh, gần, kề. Như: Đứng bên nhau, hắn ngồi kề bên tôi, nhà gần bên.

        Thánh giáo Thầy dạy Bà Đường Thị (Đái Thị Huệ) có đoạn: Vậy, con phải tuân lịnh Thầy mà lập thành Nữ phái. Nghe và tuân, Thầy hằng ở bên con, lo chung cùng con. Con chớ ngại.

                     Bên mình sầu vướng khá âu lo,

                     Bước nhọc đường gay gắng chí dò.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Nếu ôm ấp một bên thương nhớ,

                     Bịnh tương tư khó gỡ cho kham.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

        2.- Bên là phía, nói đằng nọ đối với đằng kia. Như: Bên tả bên hữu, bên Phật bên Tiên, hai bên đều có lợi.

        Thánh giáo Thầy có câu: Như kẻ bên Phật giáo hay tặng Nhiên Đăng là Chưởng giáo, Nhiên Đăng vốn sanh ra đời Hiên Viên Huỳnh Đế.

                     Hai lẽ một đàng tà với chánh,

                     Bên thì làm dữ phía làm lành.

                                                (Đạo Sử).

                     Làm bên gái mẹ cha nghi bụng,

                     Sợ khó bề lấy thúng úp voi.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BẾN

        1.- Bến là chỗ bờ sông, thường có bậc lên xuống để lấy nước hoặc tắm giặt.

        Như: Giặt quần áo dưới bến sông, làm thân con gái mười hai bến nước.

                     Mùi thế xưa còn lằn bụi trược,

                     Mạch sầu nay rửa bến sông hương.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

        2.- Bến là chỗ quy định cho tàu thuyền, xe cộ dừng lại để hành khách lên xuống hay xếp đỡ hàng hoá.

        Như: bến tàu, bến xe, bến đò ngang.

        Triết lý tôn giáo cho rằng đời là sông mê bể khổ, nên đời còn được gọi là bến tục, bến khổ, bến mê, trái với đời thì có bến phạm, bến giác.

        Thánh giáo Chơn Cực Lão Sư có câu: Đấng Chí Tôn, vì thương dân tình nơi đây, đã khổ tâm gieo Đạo, đem chiếc thuyền cận bến để dìu dắt vào chỗ bình địa đặng tự tại thung dung, mà vì chưa hiểu thấu căn nguyên, khổ bao giờ trông thoát?

                     Chờ cho trễ bước thuyền xa bến,

                     Bến tục thoát vòng hết ước mơ.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Đuốc huệ rạng soi đường tấn hoá,

                     Thuyền từ nhẹ tách bến luân hồi.

                                                (Thơ Tiếp Đạo).

BẾN GIÁC

        Bến: Chỗ bờ sông, nơi đậu của tàu thuyền. Giác 覺: Biết rõ, không mê muội.

        Bến giác, bởi chữ “Giác ngạn 覺 岸” là bờ giác.

        Theo Phật, hai bên bờ biển khổ, bên này là bờ mê, bên kia bến giác. Bến giác, cũng như bờ giác, là nơi đi đến của những người giác ngộ hay đắc Đạo, chỉ cõi Thiêng liêng Hằng Sống.

                     Chú trọng sanh linh gìn Thánh thể,

                     Nhắm ngay bến giác gắng lần mò.

                                                (Thơ Võ Thành Lượng).

                     Nền nhân đã đặt nhiều viên gạch,

                     Bến giác từng xây lắm nhịp cầu.

                                                (Thơ Huệ Ngàn).

BẾN KHỔ

        Bến: Chỗ bờ sông, nơi đậu của tàu thuyền. Khổ: Cực, đau đớn, vất vả

        Bến khổ là cái bến của “Biển khổ” (Khổ hải 苦 海), nơi có đầy dẫy những sự phiền não, khổ đau, dùng để chỉ cõi trần, cõi của nhơn loại đang sống.

        Theo Phật, muốn thoát khỏi bến khổ phải lấy trí tuệ (Bát nhã) làm con thuyền đưa sang bờ giác.

        Thánh giáo Chí Tôn có câu: Công chỉ dẫn của Thầy phải lững đững theo giọt thuỷ triều, mà rồi rốt cuộc lại, bến khổ cũng chưa xa, ngôi xưa còn lánh mãi. Thảm thay! Tiếc thay!

                     Cao Đài đứng chủ cả sanh linh,

                     Bến khổ bầu Tiên rưới thế tình.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Bến khổ trương buồm thuyền đợi khách,

                     Non Tiên trở cánh hạc chờ xuân.

                                                (Thanh Tâm Tài Nữ).

                     Nhẫng vơ vẩn vào ra bến khổ,

                     Trước mặt xem những chỗ sầu than.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BẾN KHỔ ĐƯỜNG MÊ

        Bến khổ: Bờ bến của biển khổ, chỉ thế gian. Đường mê: Con đường dẫn đến nơi mê muội, lầm lạc, chỉ cõi trần.

        Bến khổ đường mê là một thành ngữ chỉ cõi trần, nơi đầy dẫy sự khổ đau và lầm lạc.

Bến khổ đường mê vẫn cứ tìm vào mà làm cho biển trần chẳng biết bao nhiêu chìm đắm.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BẾN MÊ

        Bến: Chỗ bờ sông, nơi đậu của tàu thuyền. : Mờ ám, mất trí khôn.

        Bến mê, dịch nghĩa từ chữ “Mê tân 迷 津”, là tiếng nhà Phật, chỉ cảnh giới lầm lạc, mê muội của chúng sanh.

        Thánh Giáo Thầy có câu: Trời Nam may đặng một yếng sáng của Đấng Đại Từ Đại Bi dẫn khách trần bước lần ra con đường hắc ám, để tránh khỏi bến mê, dụng nâu sồng thế cân đai, mượn khổ tâm thay chung đỉnh, lấy hạnh đức làm nấc thang bước lên tột lừng Trời, vẹt ngút mây xanh, trông vào cảnh thiên nhiên, biết rõ cơ mầu nhiệm mà làm khách u nhàn thanh nhã, núi thẳm rừng xanh.

        Xem: Mê tân.

                     Đừng gìn thân ái nghĩa nhân,

                     Xôn xao thoát khổ xa lần bến mê.

                                                (Kinh Tận Độ).

                     Bến mê rước khách thuyền đương đợi

                     Đưa đến đào nguyên hưởng phước lành

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Còn sống đâu quên nhiệm vụ còn,

                     Bến mê độ khách tạc lòng son.

                                                (Thơ Huệ Giác).

BẾN NƯỚC

        Bến: Chỗ bờ sông, thường có bậc lên xuống để lấy nước hoặc tắm giặt. Nước: Chỉ dòng sông.

        Bến nước, do tục ngữ có câu: “Gái mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu” để ví thân phận người con gái như con thuyền, nổi lênh đênh giữa biển xã hội mênh mông, đang tìm những bến nước ghé đậu.

        Nếu may gặp bến nước trong thì hưởng sự tốt đẹp, nếu rủi gặp bến nước đục thì phải chịu lắm điều nhọc nhằn khổ cực.

        Xem: Mười hai bến nước.

                     Bến nước gái mơ màng trong đục,

                     Đếm mười hai hoạ phúc khó lừa.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

                     Bến nước khéo dò cơn sóng lượn,

                     Lòng thuyền may chọn cánh buồm trương.

                                                (Thơ Hàn Sinh).

BẾN PHẠM

        Bến: Nơi thuyền bè, xe cộ đậu, dừng lại để hành khách lên xuống xếp đỡ hàng hoá. Phạm: Phật.

        Bến Phạm là bến vào cửa Phật, ý chỉ cửa chùa, hoặc dùng để chỉ nơi tu hành.

                     Chiếc bá linh đinh thả giữa vời,

                     Thôi tìm bến Phạm đậu an nơi.

                                                (Thất Nương Giáng Bút).

Ngán thay cái kiếp con người,

Thôi đành bến Phạm kiếm lời Phật răn.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BẾN TỤC

        Bến: Nơi thuyền bè, xe cộ đậu, hay dừng lại để hành khách lên xuống xếp đỡ hàng hoá. Tục: Chỉ thế gian.

        Bến tục là bến vào cõi tục, chỉ cõi thế gian.

        Theo triết lý Phật giáo, cõi trần tục là một biển khổ, bên này bờ là “Bến tục” hay bến mê. Muốn thoát khỏi biển khổ, con người phải có trí tuệ. Trí tuệ được xem như con thuyền Bát nhã, đưa con người từ bến tục sang qua bên kia là bờ giác ngộ.

        Bến tục, bến trần hay bến mê đều dùng để chỉ cõi trần tục.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Đạo Trời qua bến tục, đường Thánh dẫn khách trần, nếu chẳng biết thế thời, giọt nhành dương hết chờ khi rưới khổ đặng.

        Xem: Bến mê.

                     Chờ cho trễ bước thuyền xa bến,

                     Bến tục thoát vòng hết ước mơ.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Thuyền chờ bến tục buồm trương sẵn,

                     Đưa đến nguồn trong rửa bợn sầu.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BẾN TƯƠNG

        Bến: Chỗ bờ sông, nơi đậu của tàu thuyền. Tương: Sông Tương.

        Bến Tương tức bến sông Tương.

        Bến Tương, bởi chữ “Tương Giang 湘 江”, chỉ sự thương nhớ giữa trai và gái, hay sự ly biệt giữa đôi lứa.

        Do tích trong “Tình Sử” đời nhà Châu, Lương Ý yêu chàng Lý Sinh, sau phải xa nhau, nên có làm bài thơ “Tương Giang” (Sông Tương).

        Xem: Sông Tương.

                     Chim lìa đảnh hạc bay ngơ ngáo,

                     Chiếc nhạn kêu thu đến bến Tương.

                                                (Đạo Sử).

BẾN THÁNH

        Bến: Chỗ bờ sông, nơi đậu của tàu thuyền. Thánh: Tiếng tôn xưng hàng Thánh.

        Bến Thánh như chữ “Bến giác”, là bến của các chơn linh giác ngộ, đạt vào hàng Thánh.

        Phật ví bên này biển khổ là bờ mê, thuyền Bát nhã (Trí tuệ) đưa qua bên kia là bến giác hay “Bến Thánh”.

                     Lần lựa cho đò xa bến Thánh,

                     Thánh tâm mấy kẻ vẹn trau thân.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BẾN TRẦN

        Bến: Chỗ bờ sông, hoặc nơi đậu tàu thuyền xe cộ. Trần: Cõi trần, tức cõi của người sống đang ở.

        Bến trần là cõi trần, tức cõi thế gian.

        Phật giáo cho rằng con người sống nơi trần gian phải chịu vòng tứ khổ sinh, lão, bịnh, tử và nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước bốn biển, nên cõi trần đước ví với biển khổ. Muốn qua khỏi biển khổ thì chúng sanh phải nhờ thuyền Bát nhã (trí tuệ) đưa từ bến trần còn gọi là bến mê, qua bờ giác (bến giác).

        Nghĩa bóng: Bến trần chỉ cõi trần, cõi thế gian.

                     Gặp chiều nhạn trở về rừng trước,

                     Đợi lúc thuyền nương lánh bến trần.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Thuyền khơi đợi gió lướt dòng ngân,

                     Dẫn khách Nam qua khỏi bến trần.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Đủng đỉnh thuyền sen ghé bến trần,

                     Cam lồ để mái giọng cao ngân.

                                                (Bát Nương Giáng Bút).

BỀN

        Bền là vững chắc, có thể giữ nguyên được lâu, không biến đổi, không suy yếu.

        Thánh giáo đức Tiêu Sơn Đạo Sĩ có câu: Hiệp Thiên Đài là gốc Đạo mà chẳng trọn phần cho chư chúng sanh tin cậy thì Đạo một ngày kia thế cũng chẳng bền ở nơi tâm trí của cả người hành đạo, mạnh được yếu thua, khác nào một trò đời vô vị. Nên khéo tính cho lắm.

                     Vòng trần chìm nổi từ đây dứt,

                     Công quả tua bền độ chúng sinh.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BỀN BỈ

        Bền: Vững chắc, dùng được lâu ngày.

        Bền bỉ là chịu đựng được mọi nặng nhọc, khó khăn và được lâu dài.

        Thánh giáo Thầy có câu: Thầy có thế dùng hai con đặng đắp vun nền Đạo, cứu vớt sanh linh, nhưng đức tín ngưỡng biết có đặng tròn, sự dày công chịu khó vì nhơn sanh biết có đặng bền bỉ chăng?

Chỉ có cách đó mới có thể kềm giữ nhơn loại trong tình yêu sanh chúng và đem lại cho con một cuộc đời hoà bình bền bỉ.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BỀN CÔNG

        Bền: Vững chắc, kéo dài lâu, sức bền. Công: Nỗi vất vả, làm nên công việc.

        Bền công là ra công một cách bền bỉ, tức làm việc không bỏ dở, không chán nản.

        Như: Tu hành phải bền công rèn tập tâm hạnh.

Bền công kinh sách xem coi,

Vô can sát mạng thiệt thòi rất oan.

                                                (Kinh Sám Hối).

                     Trong giá trắng ngần, khá chuốt trau,

                     Bền công chặt giữ mới anh hào.

                                                (Thơ Thiên Vân).

BỀN CHẶT

        Bền: Vững chắc, dùng được lầu ngày. Chặt: Không rời nhau, khó tách nhau.

        Bền chặt là chặt chẽ và bền lâu, không thể tách rời, không thể phá vỡ

        Pháp Chánh Truyền Chú Giải có câu: Luân hồi chuyển kiếp là cơ mầu nhiệm để cho các chơn hồn đặng cứu chuộc và tấn hoá, nếu truất bỏ cơ mầu nhiệm ấy đi, thì Đạo nơi nào mà bền chặt?

                     Keo sơn gắn bó luôn bền chặt,

                     Duyên phận an vui mãi trọn lành.

                                                (Thơ Hoài Tân).

BỀN CHÍ

        Bền: Vững chắc, kéo dài lâu, sức bền. Chí: Ý quyết làm một việc gì.

        Bền chí là giữ vững được ý chí, không thay đổi, không nao núng trước những khó khăn, trở ngại.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Lẽ tự nhiên là ngọc có giồi thì ngọc mới sáng, người có học mới rõ thông Đạo lý. Trên đường Đời cũng như trong cửa Đạo, nhờ có sự bền chí kiên tâm, người hiếu học mới đi đến mức thành công mỹ mãn.

Ai ai bền chí mà tu,

Phước đem đổi tội cho phu dễ gì?

                                                (Giới Tâm Kinh).

                     Hữu duyên độ thấu nguồn chơn đạo,

                     Tu niệm khuyên bền chí chớ lay.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Gìn lòng tu niệm cho bền chí,

                     Bồng đảo ngày nay đặng hiệp vầy.

                                                (Đạo Sử.).

BỀN DẠ

        Bền: Vững chắc, kéo dài được lâu. Dạ: Lòng dạ.

        Bền dạ, cũng như “Bền lòng”, là giữ vững được tinh thần, ý chí, trước sau như một, không thay đổi.

        Điếu văn của Ngài Hiến Đạo, Đại diện Hội Thánh Hiệp Thiên Đài đọc trước Liên đài Đức Thượng Sanh có câu: Trải bao nhiêu năm dài đăng đẳng, Đạo có những lúc thăng trầm, những hồi biến cố, những cơ thử thất, Đức Ngài vẫn giữ một niềm tin tưởng mãnh liệt, bền dạ sắt son, trước sau như một.

                     Bền dạ tua thìn trau đạo Thánh,

                     Ra công khá gắng đắp nền nhân.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BỀN GAN

        Bền: Vững chắc, kéo dài được lâu ngày. Gan: Một bộ phận trong ngũ tạng, chỉ lòng dạ, sự bạo dạn.

        Bền gan, như chữ “Bền dạ”, là giữ vững được lòng dạ, không nao núng, không đổi thay trước việc khó khăn, trở ngại.

        Đồng nghĩa với chữ “Kiên gan”.

                     Gắng chí tập lần thân cực nhọc,

                     Bền gan tu luyện mới là nên.

                                                (Đạo Sử).

                     Hay tánh giúp cô đôi lúc chịu,

                     Nhọc thân chẳng quản cứ bền gan.

                                                (Đạo Sử).

BỀN GIỮ

        Bền: Vững chắc, kéo dài lâu. Giữ: Không để cho mất, cho hư, cho hỏng.

        Bền giữ, như chữ “Chặt giữ”, là gìn giữ cho bền chặt.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Ta sống một trăm tuổi có nghĩa gì đâu? Ví như mỗi phen có một đám xác đi qua, thì dường như người quá cố nhắc nhở ta một điều gì? Người chết ấy nói với ta rằng: Tôi đi đây là đến cảnh thiệt, còn quý ngài ở lại đó là cảnh giả đa nghe! Phải sáng suốt đặng phân thiệt giả, mới bền giữ cơ nghiệp thiêng liêng, chớ đời sống phàm gian là một khổ hải đa nghe!

                     Viết thử Thiên thơ với nét trần,

                     Hầu sau bền giữ nghiệp Hồng Quân

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tình chung bền giữ một đời,

Chia cơm cắn muối không dời lòng thương.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BỀN LÒNG

        Bền: Vững chắc, kéo dài được lâu. Lòng: Lòng, dạ.

        Bền lòng là lòng bền bỉ, tức giữ vững được tinh thần, ý chí, trước sau như một, không hề thay đổi.

        Thánh giáo Thầy có câu: Nhà nghèo, hạnh tốt, ấy là gương treo dạy đời, các con khá bền lòng son sắt, cái hạnh tốt là thang vạch ngút mây xanh, tâm thành là để giồi trau tánh tục, lòng đạo đức quý hơn là miếng đỉnh chung, tố bần hàn tùy mình mà hành đạo thì công quả ấy trổi hơn hạng thượng lưu đó các con.

                     Bền lòng thiện niệm bồi căn trước,

                     Trễ bước thuyền e bị ngược dòng.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Út eo nhưng hiểu giữ bền lòng,

                     Trinh liệt thờ chồng đã gắng công.

                                                (Đạo Sử).

                     Khuyên bền lòng tùng thế tuỳ thời,

                     Phải quyền biến với đời gầy sự nghiệp

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BỀN SỨC

        Bền: Vững chắc, có thể kéo dài lâu. Sức: Khả năng hoạt động, làm việc, tác động hay chịu tác động đến đâu.

        Bền sức là sức lực có thể chịu đựng được bền bỉ, lâu dài trong lúc hoạt động hay làm việc.

                     Đường dài vó ngựa tua bền sức,

                     Sức yếu lòng người khéo để gương.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BỀN TÂM

        Bền: Chắc, kéo dài được lâu ngày. Tâm: Lòng.

        Bền tâm, như chữ “Bền lòng” là không ngã lòng, không sờn lòng, trước sau như một, không thay đổi.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Đã trải qua con đường thử thách, quý vị nên bền tâm ẩn nhẫn chờ qua khỏi khúc quanh nguy hiểm tức nhiên con đường sẽ trở nên ngay thẳng thuận tiện hơn.

                     Gắng chí tập lần thân cực nhọc,

                     Bền tâm tu luyện mới là nên.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Cửa Phạm bền tâm tìm xá lợi,

                     Đường trần quyết chí phủi đai cân.

                                                (Thơ Phạm Mộc Bổn).

BỀN VỮNG

        Bền: Chắc, kéo dài được lâu ngày. Vững: Chắc chắn, khó lay chuyển.

        Bền vững là chắc chắn không lay chuyển được.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nếu thế gian dữ thì thế nào đặng bảo toàn, còn mong mỏi gì đặng bền vững. Cá nhân dữ thì thế nào bảo toàn tánh mạng.

                     Biển đổi, non dời đời phải tuyệt,

                     Đức cao bền vững khó cân lường.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Chứa đức kia bền vững không ngằn,

                     Con cháu hưởng lâu bằng Trời Đất.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BỆNH

        Bệnh hay “Bịnh” là đau ốm, tức cơ thể hoặc các bộ phận trong cơ thể hoạt động không bình thường, như bệnh thương hàn, bệnh tương tư.

        Như: Bệnh nặng, bệnh truyền nhiễm, bệnh hay lây, bệnh lâu ngày người ốm yếu.

                     Khổ bệnh thấy trêu người đã quá,

                     Buổi vãng sanh giục giã kêu hồn.

                                          (Nữ Trung Tùng Phận).

BỆNH VIỆN 病 院

        Bệnh: Đau ốm, tức cơ thể hoạt động không bình thường. Viện: Nơi, cơ sở.

        Bệnh viện là cơ sở khám bệnh và nhận người đau ốm nằm điều trị.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Bệnh viện nầy dùng cho chư thiện tín, phần nhiều ở giai cấp vô sản, khi lâm bịnh có nơi chỗ nằm điều trị khỏi tốn kém. Công việc kiến thiết này sắp được thực hiện và toàn thể Đạo hữu sẽ được chung hưởng cái đặc ân của Quốc Trưởng trong ngày gần đây.

Than ôi! Ngài vào bệnh viện lần nầy là lần chót trong đời của Ngài.

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BẾP

        Bếp là dụng cụ để đun nấu, hay chỗ đặt lò lửa để đun nấu. Như: Bếp than, nhóm bếp, nhà bếp.

         Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chúng ta được sống trong vòng đạo đức nghĩa nhơn dưới bóng yêu thương của Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ, một đời sống của kẻ lánh giả tầm chơn, tuy đạm bạc trong bữa muối dưa nhưng nồng nhuộm nét trong sạch thanh cao, chúng ta thử ngó lại ngoài mặt xã hội còn biết bao nhiêu người xấu số cơ cực bần hàn, bếp trưa vắng khói, áo mỏng đêm đông, vất vả lầm than, mưa chiều nắng sớm, không được một lời an ủi, không một ý nghĩa về kiếp sống thừa, thì cái đau khổ về hình thể lẫn tinh thần của hạng người ấy mới thật là đáng thương xót.

                     Học hỏi chưa thông ngoài chái bếp,

                     Nhẫng lo cỡi phụng với đua tranh.

                                                (Đạo Sử).

Nỗi nhà, nỗi bếp, nỗi lân,

Nỗi trong thân tộc, nỗi gần, nỗi xa.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

                     Cơn sản sanh bếp lửa nồi xông,

                     Nuôi con dại, vợ bồng, chồng dắt.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BẾP NÚC

        Bếp: Lò, dụng cụ để đun nấu, gian nhà làm nơi đặt bếp để nấu ăn.

        Bếp núc là lò, bếp, tức chỉ nơi nấu ăn. Bếp núc còn dùng để nói chung về việc nấu nướng.

        Như: Nơi bếp núc phải giữ gìn sạch sẽ, việc bếp núc là bổn phận của đàn bà.

                     Vào bếp núc chỗ nhơ không kể,

                     Phơi áo quần chẳng nể Tam quan.

                                                (Kinh Sám Hối).

                     Nhà vẻn van giữ sạch nơi nơi,

                     Trong bếp núc trách nồi đậy điệm.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BÊU

        Bêu là nêu lên cho mọi người trông thấy.

        Như: Tội phạm bị chém bêu đầu trước ải, anh ấy đi bêu xấu bạn bè với mọi người.

                     Lục Nương chị ngựa bêu cứu nước,

                     Quân nghịch thù mua được thiêu thân.

                                                (Lục Nương Giáng Bút).

                     Nét gia phong cửa Khổng để bêu gương,

                     Phương hoá chủng học đường ra huấn giáo.

                                                (Văn Tế Bảo Đạo).

BI

        Bi 悲 là thương, không dùng một mình.

        Như: Ai bi, lòng từ bi của Đức Phật, hoàn cảnh anh ấy thật là bi đát, xem dung nhan cô ấy quá bi thảm.

                     Đại bi chẳng quản một phần riêng,

                     Thấp thỏi phàm tâm chác dạ phiền.

                                                (Đạo Sử).

BI ĐÁT 悲 怛

        Bi: Buồn thảm, thương xót, đáng thương. Đát: Thương xót (không dùng một mình).

        Bi đát là thương xót, tức ở trong tình trạng hết sức đau khổ, đáng thương tâm.

        Bài Tuyên dương công nghiệp Bà Hương Hiếu trong cuộc lễ Tấn phong Nữ Đầu Sư, Đức Thượng Sanh có câu: Bà chỉ còn một mảnh thân bơ vơ cô độc trong tình cảnh não nùng bi đát, để rồi khi nắng sớm mưa chiều, lúc canh tàn đêm lụn, Bà không thể ngăn được giọt thảm đầm đìa để khóc chồng, khóc con và khóc mẹ.

Cảnh nhà bi đát trăm bề,

Chắc là khó giữ lời thề với nhau.

                                                (Thơ Thiên Vân).

BI HOAN 悲 歡

        Bi: Thương xót, đau đớn. Hoan: Vui vẻ.

        Bi hoan là đau đớn và vui vẻ lẫn lộn, tức nói cảnh buồn vui thay đổi.

        Như: Kiếp sống của con người ai cũng từng trải qua những nỗi bi hoan trong đời.

                     Tuy đã hiểu mạng căn hữu số,

                     Cuộc bi hoan ly hiệp nỗi đau lòng.

                                                (Văn Tế Đốc Học).

BI KỊCH 悲 劇

        Bi: Buồn thương, đau đớn, xót xa. Kịch: Trò diễn ra trên sân khấu.

        Bi kịch là vỡ kịch kết thúc bằng sự đau thương. Bi kịch còn có nghĩa là cảnh éo le, trắc trở, đau thương.

        Trong Giảng Đạo Chơn Ngôn, Phối Sư Thái Đến Thanh có câu: Than ôi, phong-hóa suy tồi, nhơn-luân điên đảo, lòng người quỉ quái ngậm xương nòi giống, xé thịt lẫn nhau, hằng ngày xảy ra những tấn tuồng thảm thương bi kịch xem thôi mỏi mắt, nghe đã nhàm tai, những người có tấm lòng bác-ái từ-bi, cũng phải ngậm-ngùi khổ tâm than trách.

Hằng ngày diễn ra nhiều tấn tuồng thảm thương, bi kịch, xem thôi mỏi mắt, nghe đã nhàm tai, khiến cho giọt lụy thương tâm của khách ưu thời mẫn thế không thể nào ngưng được.

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

BI TRÍ DŨNG 悲 智 勇

        Bi: Lòng thương xót của các Đấng Thiêng Liêng.

        Trí: Sự sáng suốt, thông hiểu rốt ráo cái lý của sự vật để không còn mê muội, lầm lẫn nữa.

        Dũng: Có tinh thần mạnh mẽ, dám vượt qua những khó khăn, nguy hiểm, hoặc chiến thắng những cám dỗ của dục vọng.

        Bi trí dũng là ba thể tánh của Đức Chí Tôn hay các Đấng Phật, Tiên, Thánh.

        Trong các chùa bên Phật giáo, thường thờ ba pho tượng, gọi là Di Đà Tâm Tôn (hay Tam Thể Phật):

        Đức Phật A Di Đà ngồi chính giữa, tượng trưng cho sự sáng suốt, tức là Trí.

        Đức Quan Âm Bồ Tát ngồi bên mặt, tượng trưng cho sự thương yêu, tức là Bi.

        Đức Đại Thế Chí Bồ Tát ngồi bên trái, tượng trưng cho ý lực, tức thể Dũng.

        Trong Đạo Cao Đài, thờ Đức Tam Trấn Oai Nghiêm cũng là thờ Bi, Trí, Dũng:

        Đức Quan Âm Như Lai tượng trưng thể Bi.

        Đức Lý Đại Tiên Trưởng tượng trưng cho Trí.

        Đức Quan Thánh Đế Quân tượng trưng cho Dũng.

                     Là Bi, Trí Dũng đưa người sáng,

                     Hà tất đeo vòng mệnh cúc cung.

                                                (Thơ Thanh Hương).

        1.- Bí là một loại cây mọc leo hay bò, cùng họ với bầu, quả dùng để nấu canh ăn.

        Như: Nấu canh bí đao, trà bí đao, bầu bí chung giàn.

        Ca dao Việt Nam có câu: Bầu ơi thương lấy cùng, Tuy là khác giống nhưng chung một giàn.

                     Bầu chưa ai bỏ lộn giàn,

                     Mình quê chưa ắt biết cao sang.

                                                (Đạo Sử).

                     Vô phước chịu trồng bầu ra ,

                     Chẳng khác nào mua khỉ làm chồn.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        2.- Bí 秘 là giấu kín, không để cho ai biết.

        Như: Bí pháp, bí tích, bí mật, bí truyền chơn pháp, thế giới huyền bí.

        Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Đáng lẽ theo cổ truyền Pháp là huyền bí không thể gì truyền một cách rõ ràng được.

                     Dời đổi nhiệm mầu do máy Tạo,

                     Hiệp tan huyền tại Khuôn linh.

                                                (Thơ Thái Đến Thanh).

BÍ MẬT 秘 密

        : Kín đáo, không để cho ai hay biết. Mật: Chẳng để lộ ra ngoài.

        Bí mật là những điều giữ rất kín, không để lộ ra ngoài, hoặc vật được giữ kín.

        Thánh Giáo Thầy có câu: Hại thay! Nếu chẳng có cơ mầu nhiệm bí mật ấy thì chẳng thành Luật. Nếu chẳng thành Luật. Thế nào thành Đạo? Cười.

                     Màn bí mật tay kia đã nắm,

                     Lợi danh hay ngăn cấm bước đường tu.

                                                (Thái Bạch Giáng Bút).

                     Rằng muốn tỏ tường cơ bí mật,

                     Phương nào rõ thấu phép tiên tri.

                                                (Thiên Thai Kiến Diện).

BÍ PHÁP 秘 法

        : Giấu kín, không hé ra cho ai biết, Thần bí, huyền bí. Pháp: Pháp luật, giáo lý, phương thức.

        Bí pháp là những phương pháp bí mật, những pháp thuật bí ẩn hay những định luật vô hình làm chi phối sự tiến hoá của các chơn linh trong Càn khôn Vũ trụ, hay nói khác đi là những sự mầu nhiệm ẩn dấu ở trong, không ai biết được cả.

        Như vậy, bí pháp là cơ quan giải thoát cúng sanh, tức những phương thức luyện đạo của một tôn giáo, để thoát khỏi vòng luân hồi khổ não, cứu giúp linh hồn mà mục đích cuối cùng là đắc đạo, đạt được phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật nơi cõi thiêng liêng.

        Bí pháp là những phương pháp luyện đạo không được phổ biến ra ngoài, chỉ được bí truyền cho đệ tử có hạnh đức. Các phương pháp ấy được truyền trực tiếp từ thầy sang trò, nên gọi là khẩu thọ tâm truyền hay tâm pháp bí truyền.

Bần đạo vâng lịnh Đức Chí Tôn xuống trần mở đạo thì Đức Chí Tôn có hỏi rằng: Con phục lịnh xuống thế mở đạo, con mở bí pháp hay là mở thể pháp trước?

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

BÍ TÍCH 秘 跡

        : Giấu kín, không hé ra cho ai biết, Thần bí, huyền bí. Tích: Dấu vết.

        Bí tích là dấu tích bí mật.

        Bí tích, đồng nghĩa với chữ “Bí pháp”, là những pháp thuật nhiệm mầu, khi thi hành sẽ có những hiệu quả huyền diệu mà ta không thể dùng trí phàm hiểu biết được.

        Trong Đạo Cao Đài, Đức Hộ Pháp có truyền cho các vị chức sắc Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài, hay Phước Thiện bảy phép Bí tích để cứu độ nhơn sanh về phần xác và phần hồn tại các địa phương.

        Bảy Bí tích đó là: 1.- Phép Tắm Thánh. 2.- Phép Giải Oan. 3.- Phép Hôn Phối. 4.- Phép Giải Bịnh. 5.- Phép Xác. 6.- Phép Đoạn Căn. 7.- Phép Độ Thăng.

Thầy có cho phép con cầu đạo và mọi phép bí tích chi chi cho mẹ T. chăng?

                                                (Thánh Ngôn HiệpTuyển).

        Bì là ví, sánh, có thể bằng được. Như: Học giỏi không ai bì, bì sao được với anh ấy.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nếu phận còn nét chưa rồi, lương tâm chưa đặng yên tịnh thì phải biết cải quá, rán sức chuộc lấy lỗi đã làm, thì các con có lo chi chẳng bực Chí Thánh.

Tử sanh, sanh tử là chi?

Gẫm trong giấc mộng cũng như nhau.

                                                (Kinh Thế Đạo).

                     Tôn kỉnh thầy cũng cha trẻ,

                     Mới đắc truyền mọi lẽ cao sâu.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

                     Lời sai khiến lòng đừng sanh nạnh,

                     Lịnh mẹ cha Thần Thánh cũng không .

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BỈ

        1.- Bỉ 彼 là bên kia, kẻ kia, vật kia, trái với thử 此 là bên nầy, người nầy, vật nầy.

        Như: Không phân biệt bỉ thử, bỉ sắc tư phong, thuyền từ vượt qua bỉ ngạn.

Sông sâu nước chảy gắng dò,

Đường qua bỉ ngạn sẵn đò chực đưa.

                                                (Thơ Thông Quang).

        2.- Bỉ 鄙 là quê mùa, hủ lậu, thô tục.

        Như: Bỉ tiện, kẻ nghèo hèn thường bị xem là bỉ lậu, con người anh ấy thật là thô bỉ.

        Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Bởi biết nó là chúa cả hình ảnh của quyền trị thế tương lai, nó là thầy thiên hạ đặng trị thế, nếu không trọn vẹn, nó lưu lại kiểu vở thô bỉ nhơ nhớp, thì không thế gì làm thầy thiên hạ đặng.

                     Giữa cơn náo loạn trỗi cầm,

                     Lấy hơi hoà nhã dẹp lần bỉ thô.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BỈ NGẠN 彼 岸

        Bỉ: Bên kia. Ngạn: Bờ.

        Bỉ ngạn là bờ bên kia, là cái chỗ thoát ly hẳn được phiền não của đời mà được chính quả của đạo.

        Phật thường ví bên này sông là bến mê, bên kia sông là bờ giác. Thuyền bát nhã chính là trí tuệ của con người có thể đưa người từ bến mê qua bờ bỉ ngạn.

                     Bát nhã đưa người qua bỉ ngạn,

                     Phước linh rước khách đến Thiêng liêng.

                                                (Thơ Thông Quang).

                     Biển khổ khách trần bơi ngược nước,

                     Thuyền từ bỉ ngạn lướt xuôi dòng.

                                                (Thơ Thái Đến Thanh).

BỈ ỔI

        Bỉ 鄙: Quê mùa, hủ lậu, thô tục hèn hạ.

        Bỉ ổi là xấu xa, hèn hạ, có tư cách đáng khinh.

        Như: Bộ mặt trông bỉ ổi, hành động bỉ ổi, tâm địa anh ấy rất bỉ ổi.

Trái lại, một Chức sắc có hành động bỉ ổi, không phải riêng đương sự bị tiếng xấu, mà tất cả Chức sắc đều chung chịu lời chê biếm nhẽ.

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BĨ CỰC 否 極

        : Thời vận xấu, hay hoàn cảnh gặp lúc rủi ro. Cực: Cùng cực.

        Bĩ cực là vận hết sức xấu, tức cái rủi ro, long đong xảy đến một cách cùng cực.

        Điếu văn Ngài Hiến Đạo đọc trước Liên Đài Đức Thượng Sanh có đoạn: Rất may thay! Khi nên Trời cũng chìu người, Đức Ngài mạnh dạn đứng ra cứu vãn tình thế rối ren, vẹt lối chông gai, đánh tan đám mây mù, chuyển hoạ vi cường, Đạo mới qua khỏi cơn bĩ cực.

                     Nín nẩm chờ qua cơn bĩ cực,

                     Thìn lòng chúng có lượng đôi thoi.

                                                (Cao Hoài Ân Giáng).

BĨ THỚI

        Hay “Bĩ thái”.

        Bĩ thới, như chư “Bĩ thái 否 泰”, là quẻ bĩ và quẻ thái.

        Theo nguyên lý Dịch học, trời đất giao hoà thông suốt với nhau gọi là thái, nếu không giao thông được như thường gọi là bĩ.

        Vận số con người bị xấu gọi là bĩ, vận số tốt gọi là thái. Hai chữ “Bĩ thái” dùng để nói về vận số khi cùng khi thông, lúc suy lúc thịnh.

                     Tác hiệp sẵn nhờ xây bĩ thới,

                     Thành song trước định gặp thư hùng.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển)

                     Nhơn vật đổi thay hồi bĩ thới,

                     Nước non qua khỏi lối khuynh nguy.

                                                (Thơ Cao Liên Tử).

BỊ

        Bị 被 là mắc phải. Như: Bị mất cắp, bị tai nạn.

        Thánh giáo Thầy có câu: Chơn thần là gì? Là nhị xác thân (périsprit), là xác thân thiêng liêng. Khi còn ở nơi xác phàm thì rất khó xuất riêng ra đặng, bị xác phàm kéo níu.

Ấy vì lòng dạ chẳng ngay,

Giết người lấy của bị nay hình nầy.

                                                (Kinh Sám Hối).

                     Bền lòng thiện niệm bồi căn trước,

                     Trễ bước thuyền e bị ngược dòng.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BỊ ĐÈ DƯỚI NÚI NGŨ HÀNH

        Bị đè dưới núi Ngũ Hành, ý chỉ Tề Thiên Đại Thánh bị Ngũ Hành Sơn đè kẹt dưới hốc đá.

        Theo truyện Tây Du Ký, con Thạch hầu nhờ có phép thất thập nhị huyền công nên lộng hành nơi Đông Hải Long Vương và dưới Âm Phủ. Để chiêu dụ Đức Thượng Đế tạm phong cho chức Bậc Mã Ôn, nhưng Thạch Hầu không chịu, tự xưng là Tề Thiên Đại Thánh.

        Thượng Đế cũng chấp thuận, sai Thiên sứ phong cho chức Tề Thiên Đại Thánh. Kể từ nhận được chức Đại Thánh, Tề Thiên càng ngày càng lộng hành, nào là hái đào tiên, trộm linh đơn, chống lại với Thiên binh Thiên tướng, khiến cho Đức Thượng Đế phải nhờ Phật Tổ ở cõi Tây Phương dùng thần thông mà đè Tề Thiên Đại Thánh dưới núi Ngũ Hành Sơn.

        Trên hành lang nơi Báo Ân Từ có vẽ một khuôn hình ghi sự tích: “Núi Ngũ Hành đè Tề Thiên”.

Bị đè dưới núi Ngũ Hành,

Chừng nghe tiếng nổ tạo thành Ngũ Lôi.

                                                (Báo Ân Từ).

BỊ CÁO 被 告

        Bị: Mắc phải, phía bị người khác kiện. Cáo: Báo, trình, tố giác.

        Bị cáo là người bị thưa ra Toà án và bị Toà quyết định đưa ra xét xử.

        Bị cáo, đối với người Nguyên cáo 原 告 là người đi thưa trước Toà.

Khi nào có Toà Tam Giáo Cửu Trùng Đài xử đoán rồi mà người bị cáo còn uất ức, hàm oan thì mới kêu nài đến Toà Tam Giáo Hiệp Thiên Đài.

                                                (Pháp Chánh Truyền CG).

BIA DANH

        Bia: Tấm đá, khắc tên. Danh: Tên.

        Bia danh là người chết đi, tên tuổi còn truyền lại mãi mãi cho đời sau gọi là bia danh.

        Thời xưa có những lối văn như bi ký 碑 記 hay bi minh 碑 銘 dùng để khắc vào bia để kỷ niệm hoặc nói đến tiểu sử hay công nghiệp lưu lại cho đời sau, đó gọi là văn bia là một hình thức lưu truyền tiếng tăm về sau.

Hớn trào Quan Thánh bia danh,

Trung can nghĩa khí háo sanh giúp đời.

                                                (Xưng Tụng Công Đức).

Đã toan lãnh phận kiếm cung,

Đường tên mũi đạn để dùng bia danh.

                                                (Xuân Hương Giáng Bút).

BIA TẠC

        Bia: Tấm đá khắc tên. Tạc: Xoi, đục vào gỗ đá.

        Bia tạc là tên tuổi được khắc sâu vào tấm bia đá để ghi công nghiệp. Nghĩa bóng lưu truyền lại tên tuổi.

        Đức Chí Tôn dạy về bia tạc trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển như sau: Điều cần nhứt là mỗi đứa đều lưu tâm ráng lo việc Thánh Thất cho hoàn toàn, mỗi đứa để chút ít gan tấc vào đó. Ấy là nơi bia tạc tên tuổi của các con về sau, để soi gương dìu đàng hậu tấn.

                     Hạnh đức điểm tô non nước Việt

                     Muôn năm bia tạc tiếng còn ghi

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Hiếu trung tròn vẹn đời bia tạc,

                     Nhân nghĩa gồm xong bậc chí thành.

                                                (Lý Đại Tiên Giáng).

BÍCH CUNG 碧 宮

        Hay “Bích Du”.

        Bích Cung hay “Bích Du” là một cái cung của Thông Thiên Giáo Chủ, cầm đầu phái Triệt giáo.

        Vào thời Phong Thần các vị Thần Tiên xuống núi để lập bảng Phong thần gồm có hai phái: Xiển giáo là những người đầy đủ đức hạnh đều thành chánh quả, là chánh Đạo, Triệt giáo là tả Đạo, gồm các vị đệ tử của Thông Thiên Giáo Chủ, là những bậc hoá nhân, thiếu hạnh đức nên phần nhiều đắc vị Thần.

        Do vậy Bích Cung, Bích Du, hay Động Bích dùng để chỉ Triệt giáo hay chỉ Tà Đạo.

Thương người lạc bước lỡ đường,

Tìm chơn Cung Tốt, lạc đường Bích Cung.

                                                (Thất Nương Giáng Bút).

BÍCH DU

        Bích Du là tên một cái cung của Thông Thiên Giáo Chủ, cầm đầu phái Triệt giáo trong thời phong thần.

        Bích Du dùng để chỉ Triệt giáo là tả Đạo, gồm các vị đệ tử của Thông Thiên Giáo Chủ, là những bậc hoá nhân, thiếu hạnh đức nên phần nhiều đắc vị Thần.

        Xem: Bích cung.

                     Bích Du ví đã ra gây loạn,

                     Đẩu Tốt  phải toan đứng trị bình.

                                                (Đức Quyền Giáo Tông).

BIẾM

        1.- Biếm là chê bai. Như: Bao biếm (khen chê).

        Thánh giáo Lý Giáo Tông có dạy:Lão phạt cả Chức Sắc Nữ phái một tuần cấm phòng, còn Hiền Muội thì Lão biếm quở, vì không lo dạy dỗ điều đình, song cho thăng lên Chánh Phối Sư cho có quyền sửa trị Nữ phái, nhưng mà buộc còn phải tùng lịnh Đầu Sư.

                     Hơn thua trối mặc đời bao biếm,

                     Nửa kiếp dầu qua hết lấn chen.

                                                (Đạo Sử).

Xuân Thu bao biếm rõ ràng,

Trung Dung luận thuyết bảo toàn thánh tâm.

                                                (Thơ Huệ Phong).

        2.- Biếm là bị giáng chức hoặc đuổi ra cho làm quan một nơi, truất ngôi.

        Như: Biếm trích (Giáng chức và đuổi ra làm quan một nơi xa), biếm truất (Cách chức và đày đi), bị biếm ra cõi ngoài

Không biết vì cớ gì Đức Chí Tôn đã định cho Ngô Văn Chiêu làm Giáo Tông của Đạo, Đức Chí Tôn biểu may Thiên Phục Giáo Tông và may rồi trong 10 ngày lại thôi, Ngô Văn Chiêu bị biếm vậy.

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

        3.- Biếm là đè xuống, đè ép.

Đứa thì mê tài, đứa thì ham cận sắc, đứa bị biếm vào lối lợi quyền, đứa bị xô vào nơi thất đức.

                                                (Thánh Ngôn HiệpTuyển).

BIẾM NHẺ

        Biếm: Chê bai. Nhẻ: Nói xỏ xiên nhau.

        Biếm nhẻ là châm biếm, mỉa mai, nhạo báng, có lời lẽ gây khó chịu nhằm vào nhược điểm của người khác.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Thầy lại thấy nhiều đứa chưa hiểu thấu huyền diệu là gì, bị người chê, rồi về còn biếm nhẻ nữa. Phải nghịch chánh lý chăng?

                     Mặc kẻ thường tình ngu biếm nhẻ,

                     Phải coi nên chỗ để nên lời.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Phi thị dầu ai lời biếm nhẻ,

                     Những mong đem oán đổi làm ân.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BIÊN ẢI 邊 隘

        Biên: Chỗ giáp giới giữa hai nước. Ải: Cửa ải.

        Biên ải là ải quan ở nơi biên giới, tức là chỗ đất hiểm trở giáp giới giữa hai nước.

        Như: Đan áo gửi ra biên ái cho chồng.

                     Thương người giá lạnh ngoài biên ải,

                     Chinh phụ ngồi đan áo gởi chồng.

                                                (Thơ Chơn Tâm).

                     Súng rền biên ải trời xơ xác,

                     Hoa lộng thành đô, nét mỹ miều.

                                                (Thơ Hoài Tân).

BIÊN CƯƠNG 邊 疆

        Biên: Chỗ giáp giới giữa hai nước. Cương: Đất đai được giới hạn của hai quốc gia.

        Biên cương là chỉ đất đai giáp nhau giữa hai nước.

        Biên cương đồng nghĩa với các từ: Biên cảnh 邊 境, Biên thuỳ 邊 陲, hay Biên giới 邊 界.

                     Kìa Chí Tôn Cao Đài đương ngự,

                     Rưới hồng ân chặt giữ biên cương.

                                                (Kinh Thế Đạo).

                     Biên cương buổi nọ Tàu lui gót,

                     Chín bệ ngày nay quỷ nhảy đầm.

                                                (Đạo Sử).

                     Trước quốc chánh chia hai tộc chủng,

                     Núi Hoành sơn định phỏng biên cương.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BIÊN CHÉP

        Biên: Ghi vào sổ sách. Chép: Sao lại, ghi lại.

        Biên chép là ghi chép vào sổ sách.

        Thánh giáo Thầy có câu: Thầy cũng ghe phen muốn phạt những kẻ lấy bực phẩm của phàm mà gây nên rối rắm trong Đạo, nhưng chẳng nỡ. Chúng nó đã bị Thần Thánh biên chép, ngày chung cuộc sẽ liệu tội phát lạc mà thôi.

Mỗi việc nghị định đều biên chép để lại đành rành, sau khỏi điều dị nghị.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BIÊN ĐÌNH 邊 廷

        Biên: Nơi giáp giữa hai nước, như biên giới. Đình 廷: Triều đình.

        Biên đình là đất của triều đình, nơi đó là chỗ giáp giới giữa triều đình với một quốc gia khác.

                     Dặm vó Ký kỳ xông gió buộc,

                     Đài mây cù cá thoát biên đình.

                                                (Bát Nương Giáng Bút).

Xem dường cuồng khấu biên đình,

Cung dâu tên cỏ, nước mình chấn hưng.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BIÊN SOẠN 編 撰

        Biên: Ghi chép vào sổ sách. Soạn: Làm ra, như soạn một vở tuồng, một tác phẩm…

        Biên soạn là viết hay soạn thành một tác phẩm, một vở tuồng hay một bạn nhạc.

        Như: Biên soạn giáo lý cho nề Đại Đạo.

                     Giáo Lý Cao Đài thất ức niên,

                     Trương Quân biên soạn để lưu truyền.

                                                (Thơ Thượng Sanh).

                     Biết bao khó nhọc công biên soạn,

                     Lưu dấu ngàn năm chí nhiệt thành.

                                                (Thơ Huệ Giác).

BIÊN TÁI 邊 塞

        Biên: Nơi giáp giới giữa hai nước, như biên giới. Tái: Cửa ải, như quan tái.

        Biên tái là cửa ải ở nơi biên giới. Như: Phóng ngựa chảy thẳng ra biên tái.

                     Lạnh biên tái sương rơi tuyết đổ,

                     Lực rợ Phiên hùng hổ chiến cơ.

                                                (Phù Kiều Hận Sử).

BIÊN THÀNH 邊 城

        Biên: Chỗ giáp giới giữa hai quốc gia. Thành: Bức tường cao xây bao bọc để phòng thủ một đô thị.

        Biên thành là thành trì nơi biên giới, tức là chỗ đất hiểm trở giáp giới giữa hai nước.

        Xem: Biên ải.

                     Dập dìu khói nhạt phủ biên thành,

                     Sương dệt trời thu lụa mỏng manh.

                                                (Thơ Hoàng Nguyên).

BIÊN THUỲ 邊 陲

        Biên: Chỗ giáp giữa hai nước. Thuỳ: Biên giới.

        Biên thuỳ là chỗ đất biên giới giữa hai nước.

        Nói về Đại Minh Hồng Vó, Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Ông Đại Minh Hùng Võ nghe tin đó cấp thời gởi ra ngoài biên thùy đòi Trấn Bắc Tướng Quân về, rồi bị tụi nó xàm tấu không biết chừng đòi cấp thời đây, đòi về đêm ngày sợ gian thần sủng nịnh nó tâu vô tâu ra sợ về mang hại nó mới đồ mưu làm để ổng nằm trong cái hòm rồi đệ tờ sớ nói ổng chết, nó dặn ổng nếu nhược bằng như yên thì Ngài sống lại, không yên chúng tôi chở Ngài về biên thùy.

                     Biên thùy binh cách còn đe doạ,

                     Quốc nội chủ quyền lắm đổi thay.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

                     Trận tuyến danh lừng vang bách tướng,

                     Biên thuỳ tiếng hý giục tòng quân.

                                                (Thơ Hoàn Nguyên).

BIẾN

        Biến có nghĩa là vụt mất đi, hoá đi, có hoá không, không hoá có, hoặc việc xảy ra trái với sự thường.

        Như: Chạy biến đâu mất, nước biến thành hơi, bình tỉnh khi gặp biến.

        Thánh giáo Đức Thích Ca Mâu Ni Phật có câu: Chư sơn đắc đạo cùng chăng là do nơi mình hành đạo. Phép hành đạo Phật giáo dường như ra sái hết, tương tợ như gần biến Tả Đạo Bàng Môn.

                     Tang thương đã biến cuộc hầu gần,

                     Bắc Hải rồi sau lại hoá sân.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Bởi kiếp nhơn sanh bày biến dữ,

                     Nên Trời xuống phước vớt con hư.

                                                (Đạo Sử).

BIẾN CỐ 變 故

        Biến: Những việc xảy ra trái với lẽ thường. Cố: Cớ.

        Biến cố là những việc xảy ra có tác động đến đời sống con người.

        Lời Trần Thuyết của Ban Tốc Ký có viết: Nhìn vào lịch sử, những vụ "Phần Thư", những vụ chiếm đoạt thư tịch đã xảy ra như một hệ luận trước những biến cố.

Trải bao nhiêu năm dài đăng đẳng, Đạo có những lúc thăng trầm, những hồi biến cố, những cơ thử thất,

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BIẾN CHUYỂN 變 轉

        Biến: Thay đổi, hoá đi. Chuyển: Lay động từ chỗ này đến nơi khác.

        Biến chuyển là thay đổi, tức là biến đổi sang một trạng thái khác.

        Thánh Giáo Lý Giáo Tông dạy Hộ Pháp có câu: Hèn lâu Lão không đến chuyện vãn cùng nhau đặng, một là vì không cơ bút, hai là vì Thiên thơ biến chuyển, Lão có đến cũng chẳng ích gì.

                     Biến chuyển Trời Nam cuộc đảo huyền,

                     Trả vay cho sạch vết oan khiên.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Quyền do đức giáo dân quy thiện,

                     Mặt huyền linh biến chuyển đạo mầu.

                                                (Nhàn Âm Đạo Trưởng).

BIẾN DỊCH 變 易

        Biến: Thay. Dịch: Đổi.

        Biến dịch là sự thay đổi.

        Dịch lý có câu: Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu 易 窮 則 變, 變 則 通, 通 則 久, nghĩa là biến dịch đến cùng thì biến, biến ắt thông, thông thì dài lâu. Nhờ sự biến dịch mới có Đạo.

        Đạo là Trời đất cứ xoay vần mãi mãi, hết xuân đến hạ, dứt thu qua đông, trăng tròn rồi khuyết, hết ngày tới đêm, ấy là sự biến dịch của âm dương, có biến dịch, âm dương mới có sinh hoá, có sinh hoá mới có Đạo. Đạo pháp mới lưu hành mãi không bao giờ dứt, đem ánh sáng soi tỏ rạng khắp nơi, tựa như nhựt, nguyệt chiếu ngời vạn vật.

                     Vạn sự chung quy đều biến dịch,

                     Thiên nhiên đào thải luật do Trời.

                                                (Thơ Huệ Ngàn).

BIẾN ĐỔI

        Biến: Thay đổi. Đổi: Thay thế cái nầy cho cái kia.

        Biến đổi là thay đổi thành khác với trước đây.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Con khá giữ mực thẳng mà đi cho cùng bước Đạo. Ấy là tri Thiên mạng đó. Cuộc biến đổi đau đớn ở thế tình, chẳng qua là do Thiên thơ định đoạt.

                     Nỗi phận, nỗi nhà còn biến đổi,

                     Thương mình khá nghĩ phận mình xưa.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Sang hèn biến đổi mây năm sắc,

                     Vinh nhục đầy vơi nước một dòng.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BIẾN HÌNH 變 形

        Biến: Thay đổi. Hình: Hình ảnh, hình thức.

        Biến hình là thay hình dạng, hoặc thay đổi hình thức.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Người hay sợ ma là tại sao? Vì họ thấy hình ảnh của khí chất biến hình, năng minh năng ẩn, mà sự ẩn hiện ấy lấy làm lạ và trái với mắt phàm thường thấy, nên làm cho họ sợ.

                     Nguyện lời nói biến hình bác ái,

                     Nguyện chí thành sửa máy tà gian.

                                                (Kinh Thế Đạo).

                     Kìa lóng non Kỳ reo tiếng phụng,

                     Nầy xem nước Lỗ biến hình lân.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BIẾN HOÁ 變 化

        Biến: Thay đổi. Hoá: Thay đổi, trở thành.

        Biến hoá là biến đổi thành ra cái khác, tức là sang một trạng thái hoặc một hình thức khác.

        Biến hoá còn dùng để chỉ có thành không, không thành có.

        Thánh giáo Thầy có câu: Cái sống của cả chúng sanh, Thầy phân phát khắp Càn khôn Thế giới, chẳng khác nào như một nhành hoa trong cội, nó phải đủ ngày giờ Thầy nhứt định mới trổ bông và sanh trái đặng trồng nữa, biến hoá ra thêm.

                     Ví bằng ai hỏi sao bao nả?

                     Rằng trẻ noi sau biến hoá già.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

                     Thánh đức còn mong ngày biến hoá,

                     Chơn thành hồn thượng há phai mòn.

                                                (Đạo Sử).

BIẾN HOÁ VÔ CÙNG

變 化 無 窮

        Biến hoá: Biến đổi thành ra cái khác, tức là sang một trạng thái hoặc một hình thức khác.

        Vô cùng: Không dứt.

        Biến hoá vô cùng là nói Đạo Trời thiên biến vạn hoá, không cùng không tận.

        Theo Lão Tử, Đạo sinh ra trước Trời đất và là nguồn gốc sinh ra muôn vật (Đạo giả vạn vật chi áo). Chính vì thế, Đạo lúc nào cũng phải biến hoá và biến hoá mãi mãi.

        Theo Chu Liêm Khê, “Nhị khí giao cảm, hoá sinh vạn vật, vạn vật sinh sinh nhi biến hoá vô cùng yên. 二 氣 交 感, 化 生 萬 物, 萬 物 生 生 而 變 化 無 窮 焉”, nghĩa là sự vật trong thế giới lúc nào cũng biến đổi, vũ trụ chẳng khác gì một dòng sông lớn, những lượn sóng cứ xê dịch trôi mãi mãi. Đạo Trời theo sự vật cũng phải biến hoá vô cùng vô tận. Sở dĩ Đạo có biến hoá là do hai khí âm dương giao cảm nhau mà hoá sinh muôn vật, muôn vật sinh rồi lại tiếp tục sinh nữa, cho nên cuộc biến hoá trở nên vô cùng.

                           Biến hoá vô cùng,

                           Lũ truyền bửu kinh.

                                                (Kinh Cúng Tứ Thời).

BIẾN LOẠN 變 亂

        Biến: Biến hoá, thay đổi. Loạn: Loạn lạc.

        Biến loạn là sự rối loạn không thường xảy ra trong xã hội, tức là biến đổi đột ngột có tính bạo động xảy ra trong xã hội.

        Thánh giáo của Đức Tôn Sơn Chơn Nhơn trong Thánh Ngôn Sưu Tập có câu: Bần tăng thường đến gần các em, còn nỗi biến loạn nước nhà là do nơi tình thế biến chuyển, cũng bởi Thiên thơ đó thôi.

Đời càng biến loạn, nhiệm vụ người hành Đạo càng nặng nhọc.

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BIẾN QUYỀN 變 權

        Biến: Biến hoá, thay đổi. Quyền: Phương tiện dùng trong lúc biến.

        Biến quyền, do chữ “Quyền biến 權 變”, tức là ứng phó linh hoạt khi có biến, khi có việc bất thường xảy ra.

                     Dầu gặp cơn lạt mắm tèm hem,

                     Phải biết chước biến quyền khi túng tíu.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Vợ dữ nên gắng chí cho bền,

                     Tìm phương thế biến quyền dạy dỗ.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Đời Đạo muộn vẹn nét hồn nhiên,

                     Chung sức vì dân lúc biến quyền.

                                                (Thơ Huệ Giác).

BIẾN SANH 變 生

        Hay “Biến sinh”.

        Biến sanh hay “Biến sinh”, là biến hoá mà sinh ra.

        Trong Càn khôn Vũ trụ, không có một vật nào mà không biến sanh. Sự chuyển sanh, biến kiếp đều do khí Âm Dương, Ngũ hành hợp lại mà nên thể chất và trưởng thành. Tức là muôn vật hay con người từ lúc hình thành trong thai bào, cho đến khi ra đời tạo nên thân xác, thể chất, lúc nào cũng đều nhờ Âm Dương, Ngũ hành mà sinh hoá. Mãi đến khi hình hài mãn kỳ sinh thọ thì thể xác là vật chất sẽ tiêu tan, các yếu tố đó lại trở về với bản chất tự nhiên của nó, để rồi lại chuyển hoá ra một hình thể khác nữa. Tóm lại mọi vật lúc nào cũng phải biến sanh.

                     Những vạn vật Âm Dương tạo hoá,

                     Dầu cỏ cây hoa quả biến sanh,

                                                (Kinh Tận Độ).

                     Thiên cung xuất Vạn linh tùng pháp,

                     Hiệp Âm Dương hữu hạp biến sanh.

                                                (Phật Mẫu Chơn Kinh).

BIẾN TẠO CHƠN THẦN

        Hay “Biến tạo chân thần”.

        Biến tạo: Biến hoá mà tạo ra. Chơn (chân) thần: Một thể do Phật Mẫu tạo ra, được gọi là Đệ nhị xác thân.

        Biến tạo Chơn thần, như chữ “Biến tạo Chân thần 變 造 真 神”, ý nói Đức Phật Mẫu dùng Âm dương nơi lò hoá sanh tạo ra Chơn thần.

        Chơn Linh do Chí Tôn ban cho và Chơn thần được Phật Mẫu tạo ra mới phối hợp với nhục thân, tức là thân hình hài xác thịt của cha mẹ nơi cõi trần sinh ra để thành một con người ở phàm gian.

        Khi chết, Chơn linh, Chơn thần mới xuất ra khỏi thân xác, con người chỉ còn lại cái cái xác chết, tức là thân tứ đại, chờ ngày tan rã.

                     Âm Dương biến tạo Chơn thần.

                     Lo cho nhơn vật về phần hữu vi.

                                                (Tán Tụng Công Đức).

BIẾN TƯỚNG 變 相

        Biến: Thay đổi, không thường. Tướng: Trạng mạo.

        Biến tướng là hình trạng không thường, tức hình dạng có sự thay đổi.

        Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông dạy: Ấy Lão ngồi đợi chư hiền hữu chư hiền muội thành công rồi chờ Thiên thơ biến tướng mà định phẩm cho mỗi người.

                     Ít hiện tượng vào phần tưởng tượng,

                     Phép hồi quang biến tướng hữu hình.

                                                (Thiêng Liêng Hằng Sống).

BIẾN THÂN 變 身

        Biến: Thay đổi, không thường. Thân: Thân thể.

        Biến thân là biến hoá xác thân khác.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Người gọi Quan Âm là Nữ Phật tông, mà Quan Âm vốn là Từ Hàng Đạo Nhân biến thân. Từ Hàng lại sanh ra lúc Phong Thần đời nhà Thương.

                     Tinh Quân thọ sắc thuở Phong Thần,

                     Cho đến Đường Triều mới biến thân.

                                                (Đạo Sử).

BIẾN THỂ 變 體

        Biến: Thay đổi, không thường. Thể: Hình thái, hoặc hình thức.

        Biến thể là hình thể đã biến đổi đi ít nhiều so với hình thể gốc trước kia.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Dưới tiềm lực yêu thương, những gì đắng cay đều biến thành dịu ngọt, những sự đau khổ sẽ biến thể thành nguồn lạc hoan.

Nhân loại phải chịu đau khổ vì sự biến thể của các Thánh Tông đồ.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BIẾN THIÊN 變 遷

        Biến: Thay đổi.. Thiên: Thay đổi, dời đi nơi khác.

        Biến thiên là sự vật biến hoá mà thay đổi.

        Thuyết Đạo Hộ Pháp có đoạn: Vả chăng Chí Tôn đến lập Đạo Cao Đài, chẳng cần nhắc đi nhắc lại mấy Anh mấy Chị cũng hiểu nghĩa là Ngài đến lập Đền Thờ cao trọng của Ngài tại mặt thế này, mấy anh mấy chị đã thấy tấn tuồng bi kịch của Đời nó đã biến thiên đảo ngược, cái sống của toàn cầu là sống trong đường danh nẻo lợi, chẳng phải nhơn nghĩa là gì, chỉ có đạo, chẳng phải là Ngài biểu chúng ta làm cho cả loài người phải hiển Thánh hiển Thần, mà trái lại chỉ thay thế cho Ngài giáo hoá nhơn luân, chỉ đạo cho họ là đủ, rồi do cái công nghiệp ấy để tự Ngài định vị cho mình.

                     Cơ sanh hoá Càn Khôn đào tạo,

                     Do Âm Dương hiệp đạo biến thiên.

                                                (Kinh Thế Đạo).

BIỀN

        1.- Biền là bãi lầy ở ven sông, khi thuỷ triểu lên thì toàn bộ bị ngập nước.

        Như: Đi kháng chiến vào vùng bưng biền, ruộng bưng ruộng biền.

Đạo Cao Đài giờ phút này nó bị 12 phái ở Hậu Giang hiệp nhứt, ở bưng biền kháng chiến vì Quốc Sự đó.

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

        2.- Biền 駢 hay “Biền ngẫu 駢 偶”, là một lối văn gồm những cặp câu có hai hoặc nhiều vế đối nhau, như phú, chiếu, biểu…

        Biền theo cận thể tức là lối “Tứ lục”.

                     Văn chương vẫn gói bao tâm huyết,

                     Sự nghiệp còn lưu mấy thể biền.

                                                (Thơ Hàn Sinh).

BIỀN BIỆT

        Biệt: Không để lại dấu vết, hoặc tin tức gì.

        Biền biệt là không thấy hình bóng, hoặc không để lại tin tức gì cả.

        Như: Đi biền biệt, tin tức cứ biền biệt.

                     Lòng thiếp băn khoăn từng khắc lậu,

                     Tin chàng biền biệt ở phương nao.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BIỂN

        1.- Biển, như chữ “Bể”, là vùng rất rộng trên mặt địa cầu có chứa nước mặn.

        Như: Nước biển, tàu thuyền vượt biển, công ơn cha mẹ như trời biển.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Biển đương lặng, Trời đương thanh, dễ chi sóng khoả nước nhăn, mây ùn non bạc.

        Xem: Bể.

                     Biển đổi, non dời, đời phải tuyệt,

                     Đức cao bền vững khó cân lường.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Phong Thần đừng tưởng chuyện mờ hồ,

                     Giữa biển ai từng gặp Lão Tô?

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

        2.- Biển 扁 là một khuôn gỗ hình chữ nhựt, hay ván đóng khung, dùng đề những câu gì do vua ban cho hoặc tự làm ra để treo giữa nhà, trước bàn thờ hay trước cửa hàng.

        Như: Biển đề chữ ở các Đền miếu, biển treo ngoài cửa hàng, tranh biển.

Nhớ lại, khi Bần Đạo đi ngoài Qui Nhơn, gặp một ông già tên là ông Sáu Chèo, vì ông bán chèo nên mọi người kêu như vậy, vô nhà nhìn thấy bàn thờ ông bà không có treo tranh biển gì hết…

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

BIỂN ÁI

          Hay “Bể ái”.

          Biển ái, do chữ “Ái hà 愛 河”, là chữ của nhà Phật, dùng để chỉ tình yêu mênh mông như sông biển, làm cho người trần thế bị chìm đắm không thoát được.

        Bài kệ chuỗi bên Phật có câu: Ái hà thiên xích lãng, Khổ hải vạn trùng ba. Dục thoát luân hồi khổ, Tảo cấp niệm Di Đà 愛 河 千 尺 浪, 苦 海 萬 重 波. 欲 脫 輪 迴 苦, 早 急 念 彌 陀. Dịch vần: Sông yêu ngàn thước sóng, Biển khổ muôn lượn qua. Luân hồi mong vượt thoát, Mau sớm niệm Di Đà.

                     Lòng trần nung nấu trăm mùi khổ,

                     Biển ái đầy vơi một chiếc thuyền.

                                                (Đạo Sử).

                     Bởi thuyền bá sóng xao biển ái,

                     Bởi non thề sương trải lạnh lùng.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

                     Biển ái kia bờ lở khó bồi,

                     Non thề nọ đảnh trôi khôn lấp.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BIỂN CẠN NON MÒN

        Hay “Bể cạn non mòn”.

        Biển (Bể) cạn: Nước biển bị khô cạn. Non mòn: Núi non bị tiêu mòn.

        Biển (bể) cạn non mòn chỉ thời gian trôi qua dài lâu đến nỗi sông biển phải cạn, núi non phải mòn, ý nói cuộc đời thay đổi.

Dầu cho biển cạn non mòn,

Mấy lời Mẹ dặn giữ tròn chớ sai.

                                                (Diêu Trì Kim Mẫu).

Dầu cho biển cạn non mòn,

Tơ duyên khắng khít chỉ còn bấy nhiêu.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BIỂN ĐỔI NON DỜI

        Hay “Bể đổi non dời”.

        Biển (bể) đổi: Sông biển thay đối. Non dời: Núi non đổi dời, chỉ sự đổi dời.

        Biển đổi non dời là non núi và sông biển đều bị dời đổi, ý chỉ việc biến thiên, thay đổi trong trời đất.

                     Biển đổi, non dời đời phải tuyệt,

                     Đức cao bền vững khó cân lường.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BIỂN HAO NÚI LỞ

        Hay “Bể hao núi lở”.

        Biển (bể) hao: Bể hao mòn, ý chỉ bể cạn. Núi lở: Núi bị sạt lở, ý như non mòn.

        Biển hao núi lở, đồng nghĩa với câu “Biển cạn non mòn”, chỉ thời gian lâu dài hay trời đất thay đổi.

                     Sớm muộn ắt biển hao núi lở,

                     Đấng Hoá công chẳng nỡ ngồi yên.

                                                (Thơ Bảo Pháp).

BIỂN HOÁ VƯỜN DÂU

        Hay “Bể hoá vườn dâu”.

        Biển (bể) hoá: Biển có sự thay đổi. Vườn dâu: Vườn trồng cây dâu xanh.

        Biển hoá vườn dâu, bởi câu thành ngữ “Thương hải biến vi tang điền 蒼 海 變 為 桑 田” nghĩa là biển xanh hoá thành ruộng dâu, ý chỉ một cuộc thay đổi lớn.

        Xem: Bể dâu.

                     Phòng cơn biển nọ hoá vườn dâu,

                     Chưa hết quan viên há hết chầu.

                                                (Đạo Sử).

BIỂN HOẠN

        Hay “Bể hoạn”.

        Bể (biển): Vùng nước mặn rộng lớn trên bề mặt trái đất. Hoạn: Làm quan.

        Biển (bể) hoạn, bởi chữ “Hoạn hải 宦 海”, chỉ chốn quan trường.

        Người xưa thường ví cuộc đời ra làm quan cũng như chiếc đò đi giữa biển cả mênh mông, gặp nhiều sóng gió gian truân. Vì thế, người ta gọi đường ra làm quan là “Biển (bể) hoạn”.

                     Biển hoạn dập dồi thương bấy trẻ,

                     Thành sầu chất chứa cám cho gia.

                                                (Đạo Sử).

                     Ruộng dâu, giáo đóng dầy hơn rạo,

                     Biển hoạn, nước xao dẫy quá bờ.

                                                (Thiên Thai Kiến Diện).

BIỂN MÊ

        Hay “Bể mê”.

        Biển (bể): Khoảng thiên nhiên rộng có nước mặn. : Không tỉnh, lầm lạc.

        Biển (Bể) mê là một cảnh giới lầm lạc của chúng sanh, chỉ cõi trần.

        Theo Phật, chúng sanh bị nghiệp quả đoạ xuống cõi trần chịu nhiều phiền não, khổ đau. Vì thế, pháp của Phật như một chiếc bè từ đưa chúng sanh vượt qua khỏi biển mê (hay sông mê) để đến bờ giác ngộ.

        Xem: Mê Tân.

Biển mê lắc lẻo con thuyền,

Chở che khách tục, cửu tuyền ngăn sông.

                                                (Bài Thài Tam Nương).

Ta than lỗi bậc cung cầm,

Nàng sầu lạc nhạn ngư trầm biển mê.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BIỂN MÊ CHÈO CHIẾC THUYỀN TÌNH

        Hay “Bể mê chèo chiếc thuyền tình”.

        Biển mê: Chỉ cõi thế gian. Thuyền tình: Chiếc thuyền của tình thương, tức lòng từ bi.

        Biển mê chèo chiếc thuyền tình ý muốn nói chèo chiếc thuyền từ bi, bác ái để cứu vớt những người đang bị chìm đắm trong sông mê biển khổ.

Tâm ẩn ái giúp Chí Linh,

Biển mê chèo chiếc thuyền tình độ nhân.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BIỂN THÁNH

        Hay “Bể Thánh”.

        Biển (bể): Vùng nước mặn rộng lớn trên bề mặt trái đất. Thánh: Thánh Hiền.

        Biển (bể) Thánh là biển học của Thánh hiền. Ngày xưa các Nho sĩ ca tụng đạo Nho, coi đạo học của các Thánh hiền rộng lớn như biển cả.

        Xem: Bể Thánh rừng Nho.

                     Buổi già ước đặng đem thân gởi,

                     Biển Thánh rán dò lúc tuổi xuân.

                                                (Đạo Sử).

                     Biển Thánh xa khơi thuyền Bát Nhã,

                     Rừng Nho còn đượm nét anh phong.

                                                (Thơ Tiếp Pháp).

BIỂN THÁNH RỪNG NHO

        Hay “Bể Thánh rừng Nho”.

        Biển (bể) Thánh: Nền học của Thánh hiền như biển cả. Rừng Nho: Kinh sách Nho gia như cây trong rừng.

        Biển Thánh rừng Nho, lấy ý từ câu “Nho lâm học hải 儒 林 學 海”, tức chữ Nho và kinh sách của Thánh hiền nhiều như cây lá trên rừng, nền học sâu rộng như biển cả.

        Bể Thánh rừng Nho ý nói kinh sách như rừng, việc học như biển, mà người xưa nghĩ rằng không biết bao giờ mới học cho hết được.

        Xem: Rừng Nho biển Thánh.

                     Biển Thánh xa khơi thuyền Bát Nhã,

                     Rừng Nho còn đượm nét anh phong.

                                                (Thơ Tiếp Pháp).

BIỂN THỀ NON HẸN

        Hay “Bể thề non hẹn”.

        Biển thề: Chỉ biển mà thề nguyền. Non hẹn: Chỉ núi mà hứa hẹn.

        Biển thề non hẹn, bởi chữ “Hải thệ sơn minh 海 誓 山 盟”, do tích ngày xưa, mỗi khi trai gái thề nguyền về nhân duyên, thường bày bàn hương án giữa trời, chỉ biển và núi mà thề hẹn với nhau. Ngụ ý lời thề bền chặt như có biển và núi ghi tạc.

                     Sóng dập biển thề mờ mịt cảnh,

                     Mây che non hẹn lỡ làng hoa.

                                                (Thơ Đào Công).

BIỂN THƯỚC 扁 鵲

        Biển Thước là tên một danh y thời thượng cổ.

        Tương truyền vào đời vua Hiên Viên, Huỳnh Đế, Biển Thước là một thầy thuốc giỏi, nổi tiếng thời bấy giờ, có thể cải tử hoàn sinh, được người đương thời tặng cho hiệu là Thước Vương.

                     Những tưởng giữ đặng bia Biển Thước,

                     Nào hay đâu ngựa khước đem điềm.

                                                (Văn Tế Đốc Học).

                     Khéo khéo đa tình vương chứng nghịch,

                     Đầu thang Biển Thước cũng vô phang.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BIỂN TRẦN

        Hay “Biển trần khổ”.

        Biển (Bể) trần hay “Biển trần khổ” là trần gian như một cái biển khổ mênh mông.

        Theo Đạo Phật, nơi cõi trần gian nầy, sự đau khổ của con người dẫy đầy như nước biển mênh mông, lai láng, không bờ, không bến. Bài kệ chuỗi bên Phật có câu: Khổ hải vạn trùng ba.苦 海 萬 重 波 nghĩa là biển khổ muôn lượn sóng nhồi cho người chìm đắm.

         Trong Huyền Môn Nhựt Tụng có câu: Trần hải man man nhựt thuỷ đông 塵 海 茫 茫 水 日 東, nghĩa là biển trần mênh mông nước, Mặt trời chiếu trước Đông.

        1.- Biển trần:

Biển trần mặc sức sóng nhồi,

Từ thuyền tuông lướt giữa đời cứu dân.

                                                (Lục Nương Giáng Bút).

                     Biển trần đắm khách nhiều trôi nổi,

                     Đường Đạo thương ai bước lạ lùng.

                                                (Nhàn Âm Đạo Trưởng).

        2.- Biển trần khổ:

Biển trần khổ vơi vơi Trời nước

Ánh Thái Dương giọi trước phương đông.

                                                (Kinh Cúng Tứ Thời).

BIỂN TRÍ NON NHÂN

        Hay “Bể trí non nhân”.

        Biển trí: Ý chỉ sự hiểu biết rộng lớn như biển. Non nhân: Lòng thương người cao lớn như núi.

        Biển trí là trí huệ rộng lớn. Người có trí huệ là người giác ngộ, đắc thành Tiên, Phật. Trí huệ chỉ cõi Tiên.

        Non nhân là lòng từ bi, bác ái của Phật. Non nhân chỉ cảnh Phật.

        Biển trí non nhân tức là chỉ cõi tiên cảnh Phật.

Trừ trần cấu, xủ phất trần,

Quen bờ biển trí, dựa gần non nhân.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BIỆN

        1.- Biện 辯 là bày ra mà nói, nói cho rõ điều phải điều trái. Như: Biện bác, biện luận, biện thuyết, sàm biện.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Thầy có đoạn dạy: Đó là bước Đạo, đó là Thiên cơ. Các con hiểu sao được, nhưng Thầy buồn vì nỗi có nhiều đứa sàm biện về việc ấy. Thầy cũng muốn phạt chúng nó một cách nặng nề, nhưng Thầy nghĩ lại mà thương đó chút.

                     Lời kệ sám di truyền khuyến thiện,

                     Câu văn từ luận biện thật thà.

                                                (Kinh Sám Hối).

        2.- Biện 辦 là định liệu, sửa soạn, cáng đáng các công việc. Như: Liệu biện, biện lý, biện sự.

        Thánh giáo Đức Chơn Cực Lão Sư có đoạn dạy: Người Đạo đã bơ thờ như gái mới về nhà chồng ban sơ, ruột trống lổng như thùng không, trí não chưa thấy xa hơn gối. Nhóm lại nghịch lẫn nhau, gièm siểm nhau, lo đứng trên người khác nhưng lại không tài liệu biện cho có ích chi cả.

Các đường nẻo mà các con sẽ đi đến, Thầy đã liệu biện.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BIỆN PHÂN 辨 分

        Biện: Giảng giải, bày tỏ phải trái, tức xét cho rõ. Phân: Chia ra.

        Biện phân, như chữ “Phân biện 分 辨”, là chia ra để xét một cách rõ ràng.

        Như: Nhờ biện phân mà biết được hoàn cảnh anh ấy.

                     Nơi nhàn đâu đến đọa hồng trần,

                     Lành dữ vì chưng chẳng biện phân.

                                                (Đạo Sử).

                     Biện phân cho hiểu chút thân sau,

                     Nhơn trước Thiên môn chửa biết vào.

                                                (Đạo Sử).

BIẾNG

        Biếng là lười, trễ nhác, không thiết làm việc. Như: Trẻ biếng ăn, biếng chơi, ăn hay biếng làm.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nền Đạo chưa lập thành mà bên trong thì người biếng trau Thánh chất, nơi ngoài người lại muốn kêu nài so đo với các Đấng Thiêng liêng, đặng làm cho rõ mình là thấy xa hiểu rộng.

                     Vừng trăng xẻ nửa lưng tròng ngó,

                     Một mảnh gương treo biếng mắt nhìn.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Động cũ vườn tòng sầu biếng trổ,

                     Non xưa rừng bá thảm buông mành.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BIẾNG NHÁC

        Biếng: Ở trong trạng thái không thiết làm việc. Nhác: Làm biếng, lười.

        Biếng nhác là lười biếng, không muốn làm việc.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Thầy đã nói rõ ràng: Thượng Phẩm phải về Thầy trước các con, nhưng mà hại thay vì biếng nhác, các con không đọc Thánh Ngôn của Thầy mà kiếm hiểu.

                     Đừng gặp việc câu mâu biếng nhác,

                     Mà quên lời phú thác dặn dò.

                                                (Kinh Sám Hối).

Lòng chừa biếng nhác kiêu căng

Của tiền lãng phí không ngằn phải tiêu.

                                                (Kinh Sám Hối).

                     Dạy trẻ bỏ tánh tình biếng nhác,

                     Cần lập thân mới thoát phận tôi đòi.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BIẾT

        Biết là hay được, hiểu được lẽ chính, hiểu được manh mối đầu đuôi một cái gì, vật gì.

        Như: Biết rõ tình hình, biết đạo làm người.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Ta nói cho chúng sanh biết rằng: Gặp Tam Kỳ Phổ Độ nầy mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi.

                     Mũi kim chẳng lọt xưa nay hẳn,

                     Biết sợ xin khuyên cẩn thận mình.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Thơ trang đưa rước khách tài ba,

                     Nên nghiệp bởi con biết chữ hoà.

                                                (Đạo Sử).

BIẾT BAO

        Hay “Biết bao nhiêu”.

        Biết bao, như chữ “Biết bao nhiêu”, là tổ hợp biểu thị một số lượng hoặc mức độ không biết chính xác, nhưng nghĩ là nhiều lắm, cao lắm.

        Thánh giáo Thầy có câu: Các con hiểu, Thầy buồn, nhưng ấy là máy Trời đã định, chạy sao cho khỏi. Thầy biết bao lần vì các con mà chịu nhọc nhằn.

        1.- Biết bao:

                     Lợi danh đã đọa biết bao người,

                     Nhiều kẻ nay còn ý dể ngươi.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Sanh dưỡng đã biết bao căn kiếp,

                     Rồi dắt dìu cho hiệp với cha.

                                                (Diêu Trì Kim Mẫu).

        2.- Biết bao nhiêu:

                     Thưa nhặt thoi đưa cái bóng thiều,

                     Anh hùng xuất thế biết bao nhiêu.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

BIẾT ĐÂU

        Biết: Hiểu được, hay được. Đâu: Chỗ nào, chốn nào.

        1.- Biết đâu là có thể, có lẽ lắm.

        Như: Trời đang nắng, nhưng biết đâu chiều lại mưa, rán tìm chút nữa biết đâu sẽ kiếm được.

Nếu ai giết mạng sống, đều chịu quả báo không sai, biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên, Phật bị đọa luân hồi mà ra đến đỗi ấy.

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

        2.- Biết đâu còn có nghĩa là không biết rõ. Như: Anh dạy thế, chứ nào tôi có biết đâu.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Thấm thoát ngày tháng thoi đưa, bóng thiều quang nhặt thúc, sen tàn cúc rũ, đông mãn xuân về, bước sanh ly đã lắm nhuộm màu sầu, mà con đường dục vọng chẳng còn biết đâu là nơi cùng tận.

                     Ôm ấp tình chung trời một góc,

                     Hỏi mưa nhắn gió biết đâu theo.

                                                (Bát Nương Giáng Bút).

                     Nên biết căn sanh để biết mình,

                     Biết đâu tà chánh lựa mà tin.

                                                (Thơ Thượng Sanh).

                     Mù mịt biết đâu là hoạ phúc?

                     Bảy mươi chưa dám gọi rằng may.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BIẾT MẤY

        Biết: Hiểu được. Mấy: Bao nhiêu.

        Biết mấy là nhiều, nhiều lắm. Như: Vui biết mấy.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp viết: Có một điều làm cho chúng ta ngạc nhiên hơn hết là từ thử đến giờ nhơn sanh đã hiểu quyền năng vô đối của quyền lực thương yêu nhưng họ chưa hiểu biết thống nhứt cả khối thương yêu ấy đặng làm phương cứu thế độ đời, hay là làm phương châm tạo hạnh phúc cho kiếp sanh của họ trái ngược lại họ chỉ thống hiệp tinh thần thù hận, oán ghét làm cho mặt địa cầu nầy biết mấy phen đẩm máu, nhơn loại tương tàn tương sát với nhau là vì họ bội tín của họ, biết thù hận hơn là thống hiệp thương yêu.

                     Chia đôi lỡ ở, lỡ khi về,

                     Cách trở một mình biết mấy quê.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Trọn đời nhẫn chịu nhọc nhằn thân,

                     Một gánh mà mang biết mấy lần.

                                                (Đạo Sử).

BIẾT NGƯỜI BIẾT MẶT LÒNG ĐÂU BIẾT

        Biết người biết mặt: Ý chỉ hiểu biết người qua bề ngoài. Lòng đâu biết: Chẳng rõ được lòng dạ bên trong.

        Biết người biết mặt lòng đâu biết ý muốn nói có thể biết được ngoại diện, nhưng trong lòng thì không thể hiểu thấu được.

        Do câu Hán văn: “Hoạ hổ hoạ bì nan hoạ cốt, Tri nhân tri diện bất tri tâm 畫 虎 畫 皮 難 畫 骨, 知 人 知 面 不 知 心”, nghĩa là Vẽ cọp vẽ da khó vẽ xương, biết người biết mặt không biết lòng.

                     Biết người biết mặt lòng đâu biết,

                     Đừng cứ đeo đai nỗi sắc tài.

                                                (Đạo Sử).

BIỆT

        1.- Biệt 別 là rời, lìa người hoặc nơi nào đó có quan hệ gắn bó, thân thiết để bắt đầu sống xa nhau.

        Như: Ra đi biệt xóm làng, tạm biệt chồng con, chịu cảnh sầu ly biệt.

Hương thề để trước vị bài,

Châm đề thấy rõ những ngày biệt phu.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

        2.- Biệt 別 là khác với nhau, không giống. Như: Phân biệt, khác biệt, biệt hiệu.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Nếu không có thiệt thì làm sao biết đặng dối; còn không có dối, làm sao phân biệt cho có thiệt.

                     Phải phân biệt hay hay, dở dở,

                     Đặng toan phương thế đỡ nâng người.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BIỆT DẠNG

        Biệt: Mất. Dạng: Hình thể trông bên ngoài.

        Biệt dạng là mất tiêu hình dạng.

         Điếu văn của Đức Thượng Sanh đọc trước Liên đài của Tiếp Pháp Trương Văn Tràng có đoạn: Than ôi! Ngài vào bệnh viện lần nầy là lần chót trong đời của Ngài.

        Hôm nay, văn phòng Tiếp Pháp nơi Hiệp Thiên Đài còn đó mà người chủ đã ngàn thu biệt dạng. Mây bay hạc lánh, ngọc nát vàng chìm. Chúng tôi không còn gặp Ngài được nữa, để cùng nhau thố lộ tâm tình, chia vui sớt nhọc.

                     Từ độ ấy bóng hình biệt dạng.

                     Hạc với gà đôi bạn đồng tâm,

                                                (Thơ Hộ Pháp).

BIỆT LY 別 離

        Biệt: Chia ra, riêng biệt. Ly: Lìa.

        Biệt ly là từ giã để lên đường, hai người đành phải chia lìa, xa cách nhau, không còn bên nhau nữa.

        Như: Hai người biệt ly đôi ngả, trước cảnh biệt ly ai lại không đau lòng.

                     Ve kêu hạ như dường trêu thảm,

                     Mưa sầu tuôn mấy dặm biệt ly.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

                     Trời! Chinh chiến lại thêm chinh chiến,

                     Ôi! Biệt ly rồi đến biệt ly.

                                                (Thơ Hoài Tân).

BIỆT NGHIỆP 別 業

        Biệt: Chia ra, riêng.

        Nghiệp: Những việc làm những ý nghĩ thiện hay ác được lập đi lập lại, tạo nên sức mạnh chi phối tự thân và hoàn cảnh.

        Biệt nghiệp là nghiệp nhân riêng biệt của mỗi người, tạo ra quả báo riêng (biệt báo).

        Thí dụ: Mỗi người đều có những sự giàu nghèo, thọ yểu, hạnh phúc, đau khổ khác nhau, đó là biệt nghiệp.

Biệt nghiệp là quả báo riêng từng người, ai tạo nhơn là nấy thọ quả.

                                                (Thiên Đạo).

BIỆT PHÂN 別 分

        Biệt: Chia ra, riêng. Phân: Tách ra thành từng phần riêng biệt.

        Biệt phân, như chữ “Phân biệt 分 別”, là chia riêng nhau ra, hay coi là khác nhau để có sự đối xử không giống như nhau.

        Biệt phân còn có nghĩa là nhận, biết được sự khác nhau căn cứ vào đặc điểm, tính chất.

        Trong quyển Thiên Đạo, Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có câu: Nói một cách giản dị hơn: nhờ học hỏi sưu tầm chúng ta được mở mang trí thức mà làu thông đạo lý, biết biệt phân phán đoán, biết nói đạo lưu loát rạch ròi.

                     Lương tâm biết hổ ngươi chừa lỗi,

                     Mới biệt phân sừng đội lông mang

                                                (Kinh Sám Hối).

                     Thương chẳng biết biệt phân phải trái,

                     Dầu khôn ngoan ngu dại cũng là thương.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BIỆT PHU 別 夫

        Biệt: Cách biệt. Phu: Chồng.

        Biệt phu là xa cách với chồng, ý chỉ người vợ sống cách biệt với người chồng.

        Như: Sau những ngày biệt phu nàng phải lo cho con một cách vất vả.

Hương thề để trước vị bài,

Châm đề thấy rõ những ngày biệt phu.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BIỂU

        1.- Biểu, thường đọc là “Bảo”, nói điều gì với người ngang hàng hay người dưới. Như: Biểu sao nghe vậy, biểu một đàng đi làm một nẻo.

        Thánh giáo Thầy có câu: Chẳng luận là Nam hay Nữ, bất kỳ là nước nào, nó muốn biết đạo lý, con phải độ, biểu chúng nó đến nghe Thầy dạy mới có thế nó tu hành đặng, trước con không nên buộc chúng nó lắm.

        Xem: Bảo.

                     Bởi trước chẳng dằn lòng khéo liệu,

                     Vợ ghen rồi khó biểu đừng ghen.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Đổ tiếng chuông khua muôn tiếng biểu,

                     Lên lằn không khí lướt xăm xăm.

                                                (Thiên Thai Kiến Diện).

                     Ngồi lì mà đợi Lý Ngưng Vương,

                     Biểu xuống thuyền Tiên nói chẹt lườn.

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

        2.- Biểu 表 là nêu, bày ra ngoài, làm đầu, tờ tấu cho vua. Như: Tiêu biểu, đại biểu, tộc biểu, dâng biểu về triều.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Hôm nay đoàn tụ trong bầu êm ấm vui tươi dưới mái gia đình của nền Đại Đạo, sự đoàn kết chặt chẽ nầy tiêu biểu một sức mạnh phi thường có thể dời non lấp bể, nếu những quả tim của tất cả các bạn Đạo đều cùng đập một nhịp yêu đương và cương quyết làm tròn nhiệm vụ.

Làm thinh tiêu biểu bản tâm,

A Nan, Ca Diếp chọn cầm Pháp môn.

                                                (Báo Ân Từ).

BIỂU DƯƠNG 表 揚

        Biểu: Nêu lên. Dương: Đưa lên cao.

        Biểu dương là bày tỏ, nêu cao lên cho mọi người trông thấy.

        Biểu dương còn có nghĩa là khen ngợi.

        Như: Biểu dương lực lượng, biểu dương thành tích.

                     Đạo nghiệp biểu dương nền Chánh Giáo,

                     Cơ Đồ chiêu tập sức nhơn công.

                                                (Thơ Thuần Đức).

                     Bà Đầu Sư đắc Đạo quy Tiên,

                     Đền Thánh biểu dương đứng mặt tiền.

                                                (Thơ Thái Đến Thanh).

                     Biểu dương Bạch Ngọc nơi trần thế,

                     Tồn tại nghìn thu rạng ánh hồng.

                                                (Thơ Võ Thành Lượng).

BIỂU HIỆU 表 號

        Biểu: Bày ra ngoài. Hiệu: Tên hiệu.

        Biểu hiệu là dấu hiệu để hình tượng ra ngoài, tức dấu hiệu bày tỏ một ý gì cho một việc gì.

        Biểu hiệu là một thứ danh hiệu đối với người ngoài.

        Trong quyển Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Thánh giáo của Đức Lý Giáo Tông có câu: Lão đã nói, Đạo đã lập thành, vậy cây cờ chơn chánh đã vững gốc đặng làm biểu hiệu cho cả chúng sanh dòm lấy đó mà đến nơi Bạch Ngọc Kinh.

                     Có chi tài dạy trẻ đặng hay,

                     Chẳng nỡ lấy cân đai làm biểu hiệu.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BIỂU LỘ 表 露

        Biểu: Bên ngoài. Lộ: Bày ra.

        Biểu lộ là bày ra ngoài cho mọi người thấy.

        Trong Đạo Sử, bài diễn văn của Đức Quyền Giáo Tông có câu: Trong đường giao thiệp ta cần phải lấy hết tấm lòng bác ái, đem hết dạ chí thành mà đối đãi nhau thì Đạo tâm ta mới biểu lộ ra tới gương chơn chánh.

                     Lại biểu lộ Tứ linh trên nóc,

                     Cột hai hàng ngắm dọc rồng xanh.

                                                (Lược Thuật Toà Thánh).

BIỂU TƯỢNG 表 象

        Biểu: Bên ngoài. Tượng: Hình trạng hiện ra.

        Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng.

        Biểu tượng còn có nghĩa là cái ấn tượng đã qua mà làm cho nó hiện lại.

        Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh trong quyển Thiên Đạo có viết: Tôn chỉ của Đại Đạo vốn là Tam giáo quy nguyên, Ngũ chi hiệp nhứt, cho nên cách thờ phượng nơi Bát Quái Đài phải biểu tượng sự quy hiệp ấy.

                     Đạo biểu tượng tinh thần tồn cổ,

                     Làm phương châm giác ngộ trần gian.

                                                (Cội Đạo Bốn Mùa).

BIỂU THỊ 表 示

        Biểu: Nêu, tỏ ra bề ngoài, làm đầu. Thị: Bảo cho mọi người cùng biết.

        Biểu thị là tuyên bố ra, hay tỏ ra cho thấy, cho biết.

        Như: Biểu thị quyết tâm, Anh ấy biểu thị thái độ bất đồng ý kiến, bất hợp tác.

Sự hội hiệp trong đại gia đình của chúng ta lúc đầu năm Quý Mão đã biểu thị tinh thần đoàn kết và tình tương thân tương ái của chúng ta trong cửa Đạo.

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BỊN

        Bịn là vịn, nắm chặt, dùng hai bàn tay bám chặt vào một vật gì, buộc chặt.

        Như: Ngồi bịn vào gốc cây kẻo té, xuồng chạy nhanh nhớ ngồi bịn vào be cho vững.

                     Cơn gió vụt thuyền bong hải ngoại,

                     Phải lẹ tay bịn lấy dây lèo.

                                                (Lục Nương Giáng Bút).

BỊN RỊN

        Bịn: Vịn, nắm chặt, dùng tay bám chặt một vật gì.

        Bịn rịn là đi không khỏi.

        Bịn rịn còn có nghĩa là lưu luyến, quấn quít, không muốn rời nhau ra khi cần phải chia tay, như vợ con bịn rịn.

                     Ngựa xe bịn rịn cây ngăn ngõ,

                     Chợ búa đìu hiu bụi lấp đường.

                                                (Thơ Huỳnh Văn Hưởng).

BINH

        1.- Binh, cũng như chữ “Bênh”, là đứng về cùng phía để che chở, hoặc chống chế.

        Như: Mẹ hay binh con, binh một cách thiên lệch, che chở binh vực quyền lợi cho nó.

        Thuyết về Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống, Đức Hộ Phấp có câu: Người ta để cho mình làm tòa xử lấy mình thì còn ai binh cho mình nữa. Không thể gì mình chối cãi tội, cãi án của mình đặng, vì chính mình định cho mình, nếu cãi đặng là qua Chơn Thần sao? Không chối cãi gì được hết cả.

                     Công của đôi bên trao múc đủ,

                     Đừng như kẻ yếu đợi người binh.

                                                (Đạo Sử).

                     Đồng gan mới biết đặng đồng tình,

                     Biết máu thịt mình mới biết binh.

                                                (Nhàn Âm Đạo Trưởng).

                     Dòng Tương chảy thân bèo trôi nổi,

                     Chẳng ai thương chữa lỗi binh lời.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

        2.- Binh 兵 là quân lính để đánh giặc, canh giữ các dinh thự, chầu chực chỗ vua ngự, hay hầu hạ các quan.

        Thánh giáo Lý Giáo Tông dạy Ngài Thượng Trung Nhựt có câu: Hiền hữu biết rằng trong trận trí binh nầy, nếu không đủ tài tình oai dõng thì chẳng hề thắng đặng.

                     Một viết với thân giữa diễn đàn,

                     Bằng xua trước giặc vạn binh lang.

                                                (Đạo Sử).

Tầng quen cỡi ngựa cầm cương,

Trận trung quyết thắng chiến trường đoạt binh.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BINH BIẾN 兵 變

        Binh: Quân lính. Biến: Sự thay đổi.

        Binh biến là những sự thay đổi do giặc giã gây ra, tức những điều tai hoạ bởi chiến tranh, loạn lạc mà sinh ra.

        Như: Cuộc binh biến năm Mậu Thân người dân hầu hết bị nghèo khổ.

                     Chín năm binh biến phải tân toan,

                     Cứu cánh buồn trông việc bất toàn.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BINH CÁCH 兵 革

        Binh: Quân lính. Cách: Áo giáp bằng da loài thú, chỉ việc binh.

        Binh cách là tiếng dùng để chỉ binh khí và áo giáp. Nghĩa bóng: Chỉ chiến tranh, giặc giã.

        Như: Sau binh cách người dân kiến thiết nhà cửa lại.

                     Biên thùy binh cách còn đe doạ,

                     Quốc nội chủ quyền lắm đổi thay.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

                     Khiến huynh đệ dứt đường binh cách,

                     Phò Bắc Nam chung khối tiên long.

                                                (Chiêu Hồn Tử Sĩ).

BINH CÔ TƯỚNG QUẢ

兵 孤 將 寡

        Binh cô: Binh lính bị cô thế, không được viện binh đến. Tướng quả: Tướng ít.

        Binh cô tướng quả là binh côi tướng ít, ý chỉ binh tướng suy yếu vì thiếu nơi viện binh.

Khi Đức Ngài thất thủ thành Hạ Bì vì binh cô tướng quả, bị Tào Tháo vây tại hòn Thổ Sơn…

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BINH ĐAO 兵 刀

        Binh: Quân binh. Đao: Gươm giáo.

        Binh đao là binh lính và đao kiếm, tức là quân đội và khí giới.

        Nghĩa bóng: Chỉ cảnh chiến tranh, giặc giả.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Đức Chí Tôn có dạy là dân tộc Việt Thường đang ở trong vòng vay trả oan nghiệp, nhưng hơn 20 năm qua đã hứng chịu nạn binh đao thảm khốc, sự đau khổ đã chập chồng trên đất nước, dù là nơi an tịnh tu hành cũng không tránh khỏi thảm hoạ chết chóc, sự nghiệp tiêu tàn, cửa nhà đổ vỡ.

Quần xoa đỡ ngọn binh đao,

Xây hình thục nữ giặm màu nước non.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

                     Đẩu giai phải chịu nạn binh đao,

                     Người dữ xem ra chẳng khác nào.

                                                (Đạo Sử).

BINH KHÍ 兵 器

        Binh: Quân lính, quân đội,. Khí: Đồ dùng, khí giới đánh giặc, dụng cụ chiến tranh.

        Binh khí chỉ chung các loại vật dụng do quân lính dùng để chiến tranh.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Lý Giáo Tông có lời dạy: Nếu hiền hữu để tai vào lời dối trá thì là làm binh khí cho chúng nó hại Đạo đa nghe!

                     Nắn nhồi trí huệ thành binh khí,

                     Rèn chất anh thư đắp lũy đồn.

                                                (Thất Nương Giáng Bút).

                     Đoạt gươm Điển Mẫu làm binh khí,

                     Múa búa Lỗ ban lập chiến tràng.

                                                (Thiên Thai Kiến Diện).

BINH LÍNH

        Binh: Quân lính, quân đội. Lính: Người trong quân đội, không có cấp bậc.

        Binh lính là người trong quân đội ở cấp thấp nhất, không phải là cấp chỉ huy.

        Như: Nhiều binh lính không có tinh thần chiến đấu.

Kìa Quan viên Chức sắc bôn chôn,

cũng lũ dại học khôn,

Nọ binh lính Tổng làng chộn rộn,

cũng lũ ngu ăn hỗn.

                                                (Ngụ Đời).

BINH LỬA

        Binh lửa, bởi chữ “Binh hoả 兵 火”, là quân lính và khói lửa, dùng để chỉ cảnh chiến tranh, giặc giã.

        Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Điều đáng cho toàn đạo ghi nhớ là trong lúc thời cuộc còn khó khăn, đất nước đang bị khép trong vòng binh lửa, Hội Thánh phải thận trọng với nhiệm vụ và hết sức cẩn thận về mọi trường hợp để có thể lần hồi xây dựng Đại Nghiệp của Chí Tôn tại thế.

                     Nhơn sanh đồ thán cơn binh lửa,

                     Thế giới thương đau nỗi lực quyền.

                                                (Nguyệt Tâm Chơn Nhơn).

                     Xuân còn nung đậm ngòi binh lửa,

                     Xuân chẳng quét thanh đám bụi trần.

                                                (Thơ Thượng Sanh).

                     Nén hương cầu sớm tan binh lửa,

                     Đời đạo thanh bình chóng phục hưng.

                                                (Thơ Huệ Giác).

BINH NHUNG 兵 戎

        Binh: Quân lính, quân đội. Nhung: Chỉ về binh khí, hay quân lính.

        Binh nhung là tiếng dùng để chỉ về binh lính và khí giới. Nghĩa bóng: chỉ quân lính.

        Như: Phen nầy động việc binh nhung (Nh,đ. m).

                     Ngoài khua tiếng giặc trong khua nịnh,

                     Võ thiếu binh nhung quốc thiếu cờ.

                                                (Đạo Sử).

                     Khách nghĩ tài trai vùi luyến tiếc,

                     Chờ bao giờ hết hận binh nhung.

                                                (Thơ Hàn Sinh).

BINH THƯ 兵 書

        Hay “Binh thơ”.

        Binh: Quân lính, thuộc về chiến tranh. Thư: Sách.

        Binh thư hay binh thơ là sách viết về binh pháp, tức phương pháp dùng binh.

        Như: Tam lược lục thao là một quyển binh thư.

        1.- Binh thư:

                     Lược sách binh thư dâng bửu bối,

                     Bao trùm hậu khí giúp nhà Nam.

                                                (Liễu Nhứt Chơn Nhơn).

        2.- Binh thơ:

Về đông hết kế Tử Phòng,

Đoạt binh thơ chẳng Trương Tòng mưu mô.

                                                (Ngụ Đời).

BINH VỰC

        Hay “Bênh vực”.

        Binh (bênh): Đứng về cùng phía để che chở hoặc chống chế. Vực: Nâng đỡ cho ngồi dậy,đứng dậy.

        Đứng về cùng phía một người nào đó để che chở, bảo vệ cho họ, gọi là Binh (bênh) vực.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn bằng Pháp văn được Hội Thánh dịch ra Việt ngữ có câu: Con cần phải về Pháp trong năm 1928 để binh vực Giáo lý của Thầy tại Hội Nghị Đại Đồng Tôn giáo. Con sẽ trọng đại và đủ quyền năng do Thiên ý.

                     Siêng lo cho kẻ chẳng lo mình,

                     Binh vực đặng người kẻ chẳng binh.

                                                (Đạo Sử).

                     Lời lỗ không người binh vực đỡ,

                     Than ôi! cô quạnh phận hồng nhan.

                                                (Đạo Sử).

BÍNH NGỌC TƯƠNG NHƯ

柄 玉 相 如

        Bính ngọc: Cầm giữ ngọc. Tương Như: Lạn Tương Như, một nhân vật đời Chiến Quốc.

        Lạn Tương Như, người nước Triệu đời Chiến Quốc, làm xá nhân cho viên Thái giám trưởng là Mậu Hiền. Vua Tần hứa đem mười lăm thành để đổi viên ngọc họ Hoà của nước Triệu. Lạn Tương Như được Thái giám Mậu Hiền tiến dẫn để đem ngọc bích đi đổi mười lăm thành của Tần.

        Vua Tần nhận ngọc nhưng không có ý giao thành, Tương Như đánh lừa lấy lại được ngọc bích đem về trả cho Triệu. Nhờ thế, Lạn Tương Như được thăng chức Thượng khanh.

                     Bính ngọc Tương Như mấy được dành,

                     Chưa ra giá đáng xót oai danh.

                                                (Đạo Sử).

BÌNH

        1.- Bình 平 là ngang bằng, không chếch lệch, đều nhau. Như: Công bình, bình đẳng, bình địa, bình quân.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thành giáo Thầy có câu: Các con coi kinh điển lại, rồi thử nghĩ lại sự công bình thiêng liêng mà suy gẫm cho hay lẽ phải.

                     Chánh trực kinh oai loài giả dối,

                     Công bình vùa sức kẻ chơn thành.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

        2.- Bình 平 là yên ổn, phẳng lặng, không có gì lo sợ, trái với loạn.

        Như: Mọi người bình an, sức khỏe bình phục, tinh thần rất bình tĩnh, hoà bình.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu dạy: Bởi thế nên nay chính Thầy phải đến để đem lại cho các con nền hoà bình đã từng hứa hẹn.

                     Cao bay xa chạy đã hay chi,

                     Chưa biết loạn bình lúc trợ nguy.

                                                (Đạo Sử).

        3.- Bình 萍 là bèo, một loài cây sống lênh đênh trên mặt nước.

        Như Bình thuỷ tương phùng, bình bồng.

                     Lã chã giọt châu sa trước mặt,

                     Nào ngờ bình thuỷ duyên xưa.

                                                (Tuý Sơn Vân Mộng).

        4.- Bình 屏 là bức che ở trước cửa hay ở trong nhà. Như: Bình phong, bình thiên, tước bình, bắn bình.

        Xem: Bắn bình.

Mảng trong thấm nghĩa nặng tình,

Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BÌNH AN 平 安

        Bình: Yên, không có chiến tranh, không có loạn lạc. An (yên): Yên ổn.

        Bình an hay “Bình yên” là yên ổn, không có tai nạn hay điều hoặc rủi ro.

         Huấn từ của Đức Thượng Sanh có câu: Trước khi dứt lời, riêng về Chức sắc Chức việc Nam Nữ ở Địa phương, tôi cầu chúc mỗi vị thượng lộ bình an, trong năm tất cả công việc Đạo đều được tiến triển khả quan dưới sự che chở của Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ.

Cầu xin trăm họ bình an,

Nước giàu dân mạnh thanh nhàn muôn năm.

                                                (Kinh Sám Hối Ngắn).

                     Cứ níu theo phan Đức Thượng Hoàng,

                     Tự nhiên tu tánh đặng bình an.

                                                (Kinh Sám Hối Ngắn).

BÌNH BÁT

        Bình bát là một thứ dụng cụ của người tu theo Phật, để đựng vật thực của thí chủ cúng dường cho.

        Trước kia bình bát làm bằng vỏ trái cây phơi khô hoặc bằng đất. Hiện nay, bình bát thường được làm bằng thau hoặc đồng.

        Người tu theo phái khất sĩ rất trọng bình bát, bởi hằng ngày đều bưng bình bát đi hành khất.

                     Thích Ca bình bát thể tâm tu,

                     Bửu pháp Tam Tông lý vạn thù.

                                                (Thơ Huệ Phong).

BÌNH BỒNG 萍 蓬

        Bình: Bèo, một loài cây sinh trưởng và lớn lên trên mặt nước. Bồng: Cỏ bồng, một loại cỏ dùng làm tên bắn.

        Bình bồng là cánh bèo và cỏ bồng, hai loài cỏ trôi lênh đênh trên mặt nước, dùng để ví với người lưu lạc.

        Truyện Kiều, Nguyễn Du có câu: Bình bồng còn chút xa xôi, Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an!

Đời sống của Ngài là một đời hy sinh, chịu lắm vất vả, bình bồng chỉ vì một mục đích là làm cho đời loạn ra trị…

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BÌNH ĐẲNG 平 等

        Bình: Bằng phẳng, đều nhau. Đẳng: Thứ bực.

        Bình đẳng là ngang bằng nhau.

        Trong Thiên Đạo, Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh có viết: Đối đãi với người không phân giai cấp, không phân quốc tịch; chẳng so đo phú bần quý tiện; lấy đức làm trọng, lấy đạo làm cao; không cậy thế ỷ quyền, không xu phụ người thế lực; xem ta như người; xem người như ta. Đó là bình đẳng.

Huống chi người cầm quyền bình đẳng, một nước dầu là của nước Quân Chủ, hay là Tổng Thống, nước Cộng Hoà Dân Chủ cũng đều có chịu mạng Trời thể Thiên hành đạo.

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BÌNH ĐỊA 平 地

        Bình: Bằng phẳng. Địa: Đất.

        Bình địa là đất bằng, thường dùng để chỉ cảnh cả một vùng bị tai biến, không còn nhà cửa cây cối.

        Ở đây, Bình địa là đất yên ổn, ý chỉ chỗ an lạc không còn phiền não, đau khổ.

Đấng Chí Tôn, vì thương dân tình nơi đây, đã khổ tâm gieo Đạo, đem chiếc thuyền cận bến để dìu dắt vào chỗ bình địa đặng tự tại thung dung…

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BÌNH ĐỊA PHONG BA

平 地 風 波

        Bình địa: Đất bằng, thường dùng để chỉ cảnh cả một vùng bị tai biến, không còn nhà cửa, cây cối.

        Phong ba: Sóng gió.

        Bình địa phong ba là đất bằng phẳng nổi sóng gió.

        Đồng nghĩa với câu “Bình địa ba đào 平 地 波 濤” là đất bằng dậy sóng, dùng để chỉ sự việc đang yên ổn bỗng nhiên những hoạn nạn, những biến cố xảy đến một cách bất thình lình.

                     Phòng cơn bình địa nổi phong ba,

                     Con nhớ ngày nay đã có nhà.

                                                (Đạo Sử).

BÌNH YÊN

        Hay “Bình an”.

        Bình: Yên, không có chiến tranh, không có loạn lạc. Yên (an): Yên ổn.

        Bình yên, như chữ “Bình an 平 安”, là yên lành, không gặp điều gì tai hại, rủi ro.

        Như: Xóm làng bình yên, cầu chúc mọi người lên đường đều được bình yên.

        Xem: Bình an.

Nguyền cho trăm họ bình yên,

Nhà nhà no ấm khỏi phiền khỏi than.

                                                (Giới Tâm Kinh).

BÌNH MINH 平 明

        Bình: Ngang bằng, yên ổn. Minh: Sáng sủa.

        Bình minh chỉ khoảng thời gian hừng sáng, trước khi mặt trời mọc.

        Hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh trong quyển Thiên Đạo có đoạn: Khi mặt Trời lố mọc, phương Đông rọi ánh bình minh. Người ta không cần đèn đuốc cũng nhận thấy Thái dương. Lần lần ánh dương quang rọi sáng từ thành thị đến thôn quê đến hang cùng nẻo tận.

                     Kìa là ánh bình minh chói rạng,

                     Rửa tâm phàm đón áng hồng vân.

                                                (Cửu Nương Giáng Bút).

                     Còn đợi bình minh trời hé nắng,

                     Khoa trương tranh cạnh khắp hoàn cầu.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

                     Phòng sương thỏn mỏn đêm sương lạnh,

                     Đợi buổi bình minh vẹt ngút mù.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO

平 吳 大 誥

        Bình: Làm cho yên ổn.

         Ngô: Vừa là tước hiệu của Chu Nguyên Chương (Ngô Quốc Công), vừa là nguồn gốc, quê cha đất tổ của Chu Nguyên Chương, Thái Tổ nhà Minh.

        Đại cáo: Bài tuyên cáo lớn.

        Bình Ngô đại cáo là bài cáo do Nguyễn Trãi soạn thảo bằng chữ Hán vào mùa xuân năm 1428, thay cho lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo độc lập của nước Đại Việt trong cuộc chiến thắng với nhà Minh.

        Bình Ngô đại cáo là tác phẩm văn học chức năng hành chính quan trọng không chỉ đối với lịch sử dân tộc Việt Nam mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình phát triển văn học sử Việt Nam.

                     Bình Ngô Đại Cáo bia danh Nguyễn,

                     Sát Đát Binh thư dựng nghiệp Trần.

                                                (Thơ Tiếp Đạo).

BÌNH PHONG 屏 風

        Bình: Bức ngăn che. Phong: Gió.

        Bình phong là vật để chắn gió được xây gạch trước sân, hoặc bằng những khung gỗ, sắt căng vải có thể di chuyển trong nhà.

        Như: Bức bình phong che trước Thiên bàn.

                     Tám cảnh vầy mở bức bình phong,

                     Bốn cõi khắp xây nền vân thuỷ.

                                                (Tuý Sơn Vân Mộng).

BÌNH QUYỀN 平 權

        Bình: Ngang nhau. Quyền: Điều mà pháp luật hay xã hội công nhận cho được hưởng, được làm.

        Bình quyền là có quyền ngang nhau về quyền lợi.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Hại thay! Xã hội bình quyền tức nhiên mặt địa cầu ngày nay bị một quyền năng vật chất ấy nương với quyền năng tinh thần mà loài người đạt đến địa vị cao trọng và đạt cơ mầu nhiệm của tạo đoan…

                     Công vĩ đại lưu truyền nhơn loại,

                     Cả nữ nam lưỡng phái bình quyền.

                                                (Văn Tế Quyền Giáo Tông).

BÌNH SANH

        Hay “Bình sanh”.

        Bình: Thường lúc, bình thường. Sanh (sinh): sống.

        Bình sanh, như chữ “Bình sinh 平 生”, là suốt cả cuộc đời mình, tức chỉ đời mình trong lúc ngày còn sống.

        Sách Minh Tâm Bửu Giám có câu: “Nhàn trung kiểm điểm bình sanh sự, tĩnh lý tư lương nhựt sở vi 閒 中 檢 點 平 生 事, 靖 裏 思 量 日 所 為, nghĩa là trong lúc nhàn rỗi mình kiểm điểm việc bình sanh, lúc thanh tịnh nghĩ đến việc làm trong ngày.

                     Bình sanh tâm địa náo trung can,

                     Nhược thể nan tri thế đạo tàn.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Viết thầm thì ắt hoá văn hay,

                     Có chí bình sanh ắt có tài.

                                                (Đạo Sử).

BÌNH TĨNH 平 靜

        Bình: Không có gì đáng lo sợ. Tĩnh: Yên ổn.

        Bình tĩnh là làm chủ được hành động của mình, không bị bối rối.

        Trong Phương Luyện Kỷ để vào Con Đường Thứ Ba Đại Đạo có câu: Phải bình tĩnh nghĩa là đừng chịu ảnh hưởng của hoạ phước, buồn, vui (tập tánh không không đừng nhiểm, vui cũng vui, buồn cũng buồn, nhưng đừng để nọc buồn vui thấm vào chơn tánh).

Phận sự làm xong, lương tâm được bình tĩnh an vui, đó là phần thưởng êm dịu của chúng ta đó.

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BÌNH THÂN 平 身

        Bình: Ngay, bằng, không chếch lệch, đều nhau. Thân: Thân mình.

        Bình thân là ngay mình, đứng yên thẳng mình.

        Bình thân là một tiếng xướng trong nghi tiết cúng lễ, như “Hưng bình thân” là đứng dậy.

                  Hỷ chư đạo hữu. Thiên phong bình thân.

                                        (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BÌNH THUỶ 萍 水

        Bình: Cây bèo, một loại cây mọc trên mặt nước. Thuỷ: Dòng nước.

        Bình thuỷ là nước bèo, do câu “Bình thuỷ tương phùng 萍 水 相 逢” chỉ sự tình cờ mà gặp nhau.

        Bèo trôi không biết đi đâu, nước chảy chẳng biết về đâu, cả hai không định sở, thế mà có duyên gặp gỡ.

        Xem: Bình thuỷ tương phùng.

                     Hạnh phùng bình thuỷ thân an tại,

                     Nhược ngộ phong ba phận đảo huyền.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Yên hà bút hoạ tranh trăm thức,

                     Bình thuỷ duyên trao mộng bốn phương.

                                                (Thơ Hoàn Nguyên).

BÌNH THUỶ TƯƠNG PHÙNG

萍 水 相 逢

        Bình thuỷ: Bèo và nước. Tương phùng: Gặp gỡ nhau.

        Bình thuỷ tương phùng là bèo nước gặp nhau, ý chỉ sự tình cờ mà gặp nhau.

        Thơ Vương Bột đời nhà Đường có câu: Quan san nan việt, thuỳ bi thất lộ chi nhân? Bình thuỷ tương phùng, tận thị tha hương chi khách 關 山 難 越, 誰 悲 失 路 之 人. 萍 水 相 逢, 盡 是 他 鄉 之 客, nghĩa là quan san khó vượt, ai xót cho người bất đắc chí. Bèo nước gặp nhau, toàn là do mỗi người một nơi.

Có câu: Bình thuỷ tương phùng,

Thuyền lòng hội ngộ bến lòng hôm nay.

                                                (Thơ Hoài Tân).

BỈNH CHÁNH

        Hay “Bỉnh chính”.

        Bỉnh: Cái cán, cầm. Chánh (chính): Việc của nhà nước, quy tắc để làm việc.

        Bỉnh chánh, như chữ “Bỉnh chính 柄 政”, là nắm chánh quyền, tức cầm quyền hành chánh.

                     Đã có sẵn một quyền bỉnh chánh,

                     Cứ phận mình lại nạnh chi ai.

                                                (Ngũ Nương Giáng Bút).

BỊNH

        Hay “Bệnh”.

        1.- Bịnh còn đọc là “Bệnh”, có nghĩa là đau ốm. Như: Đau bịnh, bịnh tim, phòng bịnh hơn chữa bịnh.

        Thánh giáo Thầy có đoạn: Đạo hiện giờ cũng chẳng khác chi người bịnh mà lương y coi chưa ra chứng. Bề ngoài coi chẳng có vẻ chi trầm trọng, nhưng một ngày kia nếu chẳng rõ mà chế cải thì xuất tại trong mà loán ra ngoài, thế mạnh như núi đè cây, biển tràn bờ, chẳng thế chi ngăn chống nổi.

                     Nếu ôm ấp một bên thương nhớ,

                     Bịnh tương tư khó gỡ cho kham.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

                     Ghen sợ chồng thân thể hao mòn,

                     Ghen sợ bịnh không tròn đạo cả.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        2.-Bịnh hay “Bệnh” còn dùng để chỉ thói quen, nết xấu của con người.

        Như: Bịnh (bệnh) hiếu thắng, bịnh tham của, bịnh liến, bịnh lười biếng.

                     Muốn sửa bịnh các em làm biếng,

                     Thì toan bề sai khiến lượng phương làm.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BỊNH CHƯỚNG 病 嶂

        Hay “Bệnh chướng”.

        Bịnh (Bệnh): Đau ốm. Chướng: Khí ẩm thấp của rừng núi kết lại.

        Bịnh (Bệnh) chướng là do chướng khí, tức hơi độc trong trời đất gây thành bịnh.

        Thánh giáo Đức Lý Đại Tiên có câu: Nạn tiêu diệt hầu gần, hết chém giết lẫn nhau tới buổi bịnh chướng sát hại. Lão thấy hình phạt phải châu mày, nhưng ôm lòng ráng chịu, lạy lục khẩn cầu.

                     Thiên tai địa ách do oan nghiệt,

                     Bệnh chướng đao binh tại sở hành.

                                                (Thơ Huệ Phong).

BỊNH HOẠN 病 患

        Hay “Bệnh hoạn”.

        Bịnh (bệnh): Đau ốm, tức cơ thể hoạt động không bình thường. Hoạn: Tai hại, sinh bịnh.

        Bịnh hoạn hay “Bệnh hoạn”, là nói chung về bệnh tật và hoạn nạn.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Tôi nhận thấy Hội Thánh Phước Thiện có nhiều thiện chí xây dựng, nhứt là vị chưởng quản Phước Thiện từ mấy năm nay đã gắng sức thực hành công tác từ thiện để giúp ích cho người già cả và cho Đạo hữu trong lúc ương yếu bịnh hoạn.

                     Cứu bịnh hoạn giúp người nghèo khổ,

                     Thế cho chồng cứu độ muôn dân.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Cơn bịnh hoạn ân cần thang thuốc,

                     Khi rầu buồn dịu ngọt khuyên lơn.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BỊNH LIẾN

        Bịnh: Còn đọc “Bệnh 病”, dùng để chỉ thói quen, nết xấu của con người.

        Liến: Lanh lẹ, hoạt bát trong nói năng, đối đáp, hoặc thích đù nghịch, chọc phá, giỡn hớt.

        Bịnh liến là có tật hay quậy, hay đùa nghịch, chọc phá, táy máy luôn tay.

                     Thiệt bịnh liến của tôi cũng quá,

                     Vẽ thật tình mấy ả chênh lòng.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BÍT CHỊT

        Bít: Che kín, làm cho lối thông với bên ngoài bị tắt nghẽn đi. Chịt: Làm cho tắc, không thông.

        Bít chịt, như chữ “Bít bùng”, là chật cứng, kín mít, không có chỗ nào xen vào được.

        Như: Cây cỏ mọc bít chịt khu vườn.

                     Đường ngắn ngủn mà đường bít chịt,

                     Sậy lè tè khít rịt rậm ri.

                                                (Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

BỊT

        1.- Bịt là làm cho chỗ có lỗ hổng hoặc chỗ khe hở được che kín lại.

        Như: Lấy vải bịt miệng hủ, trò chơi bịt mắt bắt dê, bịt tai bịt miệng lại.

                     Lỗ tai bịt đừng nghe lời bợ,

                     Hễ dữ hung sách vở vẫn nằm lòng.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        2.- Bịt còn có nghĩa là che kín, bọc quanh, vấn quanh. Như: Bịt hết đầu mối, bịt răng, khăn bịt đầu.

        Nói về bộ Đại phục Thượng Sanh, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng trong quyển Giáo Lý có viết: Đại Phục cũng y như Thượng Phẩm, đầu bịt Thanh Cân, tức bao đảnh xanh, lưng mang dây Thần Thông, tức một đường lụa đỏ và nịt giây Lịnh Sắc, y như Hộ Pháp và Thượng Phẩm, song thả mối bên tả, nơi lưng giắt Thư Hùng Kiếm.

Vô tới giữa điện thờ, con cháu đem bộ áo của ông cố hay ông sơ gì đó mặc vô cho ông, bịt khăn và trao cho cây gậy.

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

BO BO

        Bo: Keo kiệt, giữ chặt lấy cho mình.

        Bo bo là nhứt thiết không chịu rời bỏ ra, mà giữ chặt lấy với mình.

        Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có đoạn: Hại thay! Ngài (Chí Tôn) phải chịu một trường hợp khó khăn đã chịu một điều oan khúc tình cờ không thế gì tự bào chữa lấy mình cho đặng, đàng sau Anh cả chúng ta buổi nọ, cả Chức Sắc Thiên Phong nam, nữ cả tín đồ đều phân phân bất nhứt, đàng sau Anh cả chúng ta buổi nọ không có cái hậu thuẫn chi hết, cả thảy đều bo bo chết anh, anh chịu, chết em, em chịu, không biết binh vực lẫn nhau, không có một hậu thuẫn biểu sao cường quyền không áp chế bắt cầm tù đặng thị nhục.

                     Bởi bo bo chuộng nết yêu đào,

                     Chẳng đếm bực thư hào đồng phẩm vị.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Còn anh mãi bo bo chác khổ,

                     Giam cuộc đời vào chỗ quạnh hiu.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

        1.- Bó là dùng lạt, dây để buộc những vật rời được kết lại với nhau.

        Như: Bó củi, bó đũa, bó lúa.

                     Mây che nào khuất ngôi sao thẳm,

                     Ai bẻ cho rời đũa con.

                                                (Thơ Võ Thành Lượng).

        2.- Bó là kềm lại, giữ lại, không cho bộc phát ra hay không cho hoạt động được.

        Như: Bó lòng thảm, cái khó bó cái khôn, bó mình, bó cẳng, bó gối. bó tay, bó dò.

lòng thảm, dệt tâm đau,

Nâu sồng cậy phép đổi màu anh hoa.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BÓ BUỘC

        : Dùng dây, lạt để buộc những vật rời được kết lại với nhau. Buộc: Lấy dây quấn lại và thắt cho chặt.

        Bó buộc là kìm giữ trong phạm vi nhất định, không cho tự do hành động.

        Hai Ngài Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh trong quyển Thiên Đạo có viết: Tóm lại mà nói, ngoại trừ những phương pháp tu dưỡng cao siêu dành riêng cho bực thượng thừa, còn thì những quy tắc vừa kể ra đây rất hạp với người ta tu tại gia không điều chi bó buộc khó khăn, và cũng không mảy may nào gọi là yếm thế, là dị đoan, là mê tín.

Vì cớ nên, thời giờ nầy, thấy Bần Đạo bó buộc nghiêm khắc có lẽ những kẻ biếng nhác cũng phàn nàn lén lút.

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

BÓ ĐŨA

        : Chỉ toàn bộ những vật rời được kết lại với nhau, như bó đước, bó hoa. Đũa: Đồ bằng tre dùng để gắp.

        Bó đũa là nhiều chiếc đũa ăn cơm được buộc chặt lại với nhau thành một lọn.

        Bó đũa còn dùng để biểu tượng cho sự đoàn kết gây sức mạnh.

        Do tích một người cha đưa từng chiếc đũa cho các con bẻ, tất cả đều bẻ gãy hết. Nhưng khi ông cột lại thành một bó thì các con không bẻ gãy được. Vì vậy ông cho rằng đoàn kết tạo nên sức mạnh.

        Xem: Gương cột đũa.

                     Mây che nào khuất ngôi sao thẳm,

                     Ai bẻ cho rời bó đũa con.

                                                (Thơ Võ Thành Lượng).

        1.- Bò là động vật thuộc loài nhai lại, chân hai móng, sừng rỗng và ngắn, lông thường màu vàng, nuôi để lấy sức kéo, ăn thịt hoặc lấy sữa.

        Như: Trâu, bò cày ruộng, nuôi bò lấy sữa, trâu bò hút nhau ruồi muỗi chết.

                     Lại cũng thấy người ta mà đẻ,

                     Đứa con đầu giống nghé giống .

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Tại mẹ thường hay sợ hay lo,

                     Gặp trâu chém xô, nên đẻ giống.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        2.- Bò là di chuyển bằng hai tay và hai đầu gối.

        Như: Bé bò lết suốt ngày, bò qua rào kẽm gai, chưa tập bò đã lo tập chạy.

                     Khi vừa mới biết biết mách,

                     Đừng cho người chọc cách dữ dằn.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BÒ LẾT

        : Di chuyển bằng hai tay, hai đầu gối, hoặc di sát bụng xuống đất. Lết: Kéo lê đôi chân mà di chuyển.

        Bò lết là nói di chuyển vừa bò vừa lết, chứ không đi bằng hai chân, ý chỉ người đê tiện, cúi mình vì lợi quyền.

        Như: Nó bò lết, đội những người có địa vị, quyền lợi để kiếm chác.

Thiên hạ cúi mình bò lết trong chỗ nhơ bẩn vì chút ít lợi quyền, chúng ta phải vươn mình lên cao để đón hứng mùi hương thanh thoát…

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BỎ

        1.- Bỏ là để hoặc cất một vật gì vào một nơi, một vị trí nào đó nhằm mục đích nhất định.

        Như: Bỏ phân xuống ruộng, bỏ hột trên luống cày, bỏ tiền vào túi, muối bỏ biển.

                     Kìa những gái lẫy lừng hạnh xấu,

                     Bỏ vạc đồng đốt nấu thảm kinh.

                                                (Kinh Sám Hối).

                     Bầu bí chưa ai bỏ lộn giàn,

                     Mình quê chưa ắt biết cao sang.

                                                (Đạo Sử).

                     Phân mắc rẻ lòng đừng sợ tốn,

                     Bỏ cho nhiều ruộng trộn cho đều.

                                        (Phương Tu Đại Đạo).

        2.- Bỏ là không dùng nữa, không nhìn nhận đến. Như: Bỏ nhà đi mãi, nhà nước năm tới bỏ khoa thi.

        Thánh giáo Thầy có câu: Ấy vậy, Đạo là vật rất hữu ích, như giáp hữu ích cho thân các con. Nếu các con bỏ giáp thì thân các con ra trần lỗ, còn bỏ Đạo thì các con ở dưới phép tà thần.

                     Vinh hoa phẩm cũ ngôi xưa đó,

                     Khổ cực các con chớ bỏ trường.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Chẳng kể công khanh bỏ ấn quan,

                     Bồng Lai vui đạo hưởng an nhàn.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Áo rủi rách cổi đi mà bỏ,

                     Muốn cho lành chỉ xỏ trôn kim.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BỎ CON LO CHÁU

        Bỏ con: Vì nghĩa mà dứt bỏ con. Lo cháu: Giữ gìn đứa cháu theo lời hứa.

        Bỏ con lo cháu, bỡi chữ “Tồn điệt phế nhi 存 姪 廢 兒”, nghĩa là bỏ con để giữ cháu cho còn.

        Sách Tấn Thư chép: Đặng Nho tự là Bá Đạo, người đời Tấn, tính tình chánh trực, hoà hiếu. Người anh và chị dâu của Đặng Nho chết đi để lại một đứa con trai, cùng trang lứa với con mình, Đặng Nho đem về nuôi dưỡng cả con lẫn cháu.

        Khi Đặng Nho giữ chức Thái thú đất Hà Đông, gặp năm có giặc Triệu Thạch Lặc nổi lên làm loạn, Đặng Nho phải cùng vợ con và đứa cháu chạy lánh nạn. Giữa đường gặp giặc rượt đuổi phải chạy sang sông, ông liệu không thể nào bảo toàn cả con lẫn cháu, mới bàn với vợ: Anh ta chỉ có một đứa con trai để lại ta nuôi dưỡng bấy lâu nay, không thể để tuyệt giống, còn đứa con chúng ta có mất đi, ta có thể sinh đứa con khác được, vậy ta phải bỏ con lại và đem cháu theo.

        Về sau ông được cử làm Thái thú Ngô Quận, nổi tiếng thanh liêm, rất được lòng dân, nhưng vợ ông hết đường sinh sản nữa. người xưa than rằng: “Thiên Đạo vô tri, sử Bá Đạo vô nhi 天 道 無 知, 使 伯 道 無 兒” nghĩa là Đạo Trời không biết người nghĩa, khiến cho ông Bá Đạo không con.

        Khi hai vợ chồng Đặng Nho già yếu, người cháu rất có hiếu, phụng dưỡng ông bà lúc sống như cha mẹ ruột khi chết để tang ba năm, nên sách Nho có câu: “Đặng thị điệt tam tải trì tang, Bá Đạo vô hám 鄧 氏 姪 三 載 持 喪, 伯 道 無 憾”, nghĩa là cháu của họ Đặng ba năm cư tang, ông Bá Đạo chẳng hề hối hận.

        Bên ngoài về phía sau hành lang Báo Ân Từ có một khuôn hình lấy tích “Tồn điệt phế nhi 存 姪 廢 兒”.

        Xem: Đặng Nho.

                     Vì thương cháu, chị anh đã khoản,

                     Hết lương khô chạy nạn bế con.

Bỏ con lo cháu cho tròn,

Đặng Nho khuyên vợ ta còn tương lai.

                                                (Báo Ân Từ).

BỎ DỞ

        Bỏ: Thôi không tiếp tục nữa. Dở: Ở tình trạng chưa xong, chưa kết thúc.

        Bỏ dở là để dở dang, tức không bỏ hẳn, nhưng cũng không tiếp tục.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Chẳng nên thấy sự khó khăn mà bỏ dở nửa chừng, hoặc ham lợi nhiều mà làm việc cẩu thả, khiến công chuyện bất thành rồi đổ thừa cho điều nầy lẽ nọ.

                     Ấp lạnh quạt nồng đành bỏ dở,

                     Dâng trà mời nước phải buông trôi.

                                                (Thơ Hoài Tân).

BỎ HOANG

        Bỏ: Thôi không tiếp tục nữa. Hoang: Không được con người chăm sóc, sử dụng đến.

        Bỏ hoang là bỏ đất trống, không trồng trọt, hay bỏ vật gì không sử dụng, lo lắng đến trong một thời gian dài.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Thanh Tâm có câu: Ruộng đây là tỷ với Tâm, Tâm không ai giồi trau. Đạo nơi Tâm, thì Tâm ví như Điền, có Điền mà chẳng cày bừa đặng đem hột lúa gieo vào cho đặng trổ bông đơm hột thì ruộng tất phải bỏ hoang, bỏ hoang thì sâu bọ rắn rít xen vào ẩn trú.

                     Quốc gia nghèo nàn, dân khó mở mang,

                     Lăng điện phá hoại, Văn miếu bỏ hoang,

                                                (Ngụ Đời).

BỎ PHẾ

        Bỏ: Không chăm nom, không chú tâm đến. Phế: Truất bỏ, không dùng nữa.

        Bỏ phế là bỏ qua không trông nom, không quan tâm hay chú ý đến nữa.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Con người cũng vậy, nếu quá lo cho hình thức mà, bỏ phế tinh thần thì con người sẽ trở nên xa hoa lãng mạn, vô đạo đức, vô nghĩa nhân và sẽ là một mối tai hại cho gia đình và xã hội.

                     Thương luân lý xem thường bỏ phế,

                     Thương kẻ nàn hoà lệ chia ưu,

                                                (Bát Nương Giáng Bút).

BỎ THỪA

        Bỏ: Bỏ là không dùng nữa, không nhìn nhận đến. Thừa: Dư ra, không thiếu, không dùng đến nữa.

        Bỏ thừa là bỏ hẳn những phần còn lại ra, không muốn dùng đến nữa.

        Như: Ăn thì ăn cho hết đùng có bỏ thừa phí lắm.

                     Chuộng danh đã đặng gặp danh chưa,

                     Hay nỗi ở ăn của bỏ thừa.

                                                (Đạo Sử).

                     Phàm quý lạ thì là trọng giá,

                     Vì cớ nào ném bạ bỏ thừa.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BÓC

        Bóc là cổi ra, lột lần vỏ bên ngoài. Như: Bóc vỏ bỏ hột, địa chủ bóc lột, những phường cướp bóc.

        Đức Lê Văn Duyệt giáng cơ trong Thánh Ngôn Sưu Tập có câu: Ngày nay có hai khối cầm vận mạng toàn cả nhơn loại, là khối Vô Sản và khối Tư Bản, nhưng khối nào cũng dùng quyền độc đoán cướp bóc chúng sanh, nên cần có một tôn giáo đứng làm trọng tài cho hai khối, thế sau nầy mới gây hoà bình được.

Thêm nữa Đấng chịu khổ nhục đi ăn xin từ bữa, chịu hèn hạ ấy lại còn bị chúng bắt đóng đinh trên cây Thập Tự Giá "Lên án là kẻ côn đồ" kẻ hung bạo, cướp bóc.

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

BÓC LỘT

        Bóc: Lột dần vỏ bên ngoài, cổi ra. Lột: Bóc tuột ra.

        Bóc lột là chiếm đoạt thành quả lao động của người khác bằng cách dựa vào quyền tư hữu về tư liệu sản xuất, hoặc vào quyền thế chính trị.

        Bóc lột còn dùng để chỉ ăn lãi quá đáng, hoặc lợi dụng quá đáng.

        Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Coi dân như con đỏ, làng như cha mẹ dân thay thế cho triều đình, mà muốn nên phận cha mẹ dân thì vị chủ quyền đó không tư tâm, tư kỷ, hễ tư tâm tư kỷ tức bóc lột dân, trộm cướp của dân, hiếp bức dân.

Một phần đồng bào chúng ta, lớp bị tàn sát dã man, không phương trốn lánh, lớp bị bóc lột sản nghiệp, của tiền, chỉ còn mảnh áo che thân.

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).

BỌC

        Bọc là gói lại, bao kín chung quanh. Như: Bọc quần áo, da bọc xương, da ngựa bọc thây.

        Thánh giáo Thầy có câu: Thầy nói cái chơn thần là nhị xác thân các con, là khí chất (le sperme évaporé). Nó bao bọc thân thể các con như khuôn bọc vậy.

                     Con vốn thật là tay chơn Lão,

                     Phái nữ nhi bọc bảo giúp công Thầy,

                                                (Ngọc Hoàng Thượng Đế).

BỌC THÂY

        Bọc thây, bởi chữ “Da ngựa bọc thây” dịch từ thành ngữ Hán là “Mã cách loã thi 馬 革 裸 尸”.

        Bọc thây nói nghĩa vụ làm trai xông pha chết nơi chiến địa, lấy da ngựa bọc thây.

        Do câu nói của Mã Viện trong Hán Thư: Nam nhi yếu đương tử ư biên dã, dĩ mã cách loã thi hoàn táng nhĩ, hà năng ngoạ sàng thượng tại nhi nữ thủ trung da! 男 兒 要 當 於 邊 野 以 馬 革 裸 尸 還 葬 耳 何 能 臥 床 上 在 兒 女 手 中 耶, nghĩa là làm trai nên chết ở chốn biên thuỳ, lấy da ngựa bọc mà chôn mới là đáng trọng, chứ sao lại nằm ở xó nhà, chết ở trong tay bọn đàn bà thì có hay gì.

                     Bọc thây dù phải đền ơn nước,

                     Nâng vạc chi còn tiếc mảnh thân.

                                                (Thơ Hoàn Nguyên).

BÓI

        1.- Bói là đoán việc may rủi hay sống chết đã qua hay sắp tới. Như: Thầy bói, bói ra ma quét nhà ra rác.

        Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Dầu nơi Cực Lạc cũ, hay đất mới cùng là Nghĩa Địa; đất 50 mẫu ở Long Thành cũng vậy, Bần Đạo đã biết bên nước Tàu; hễ ông, bà, cha, mẹ họ có qui, họ quàng lại để chọn ngày hoặc chỗ đất tốt có hàm rồng, dầu phải 5, 3, năm họ cũng đợi kiếm được mới làm lễ an táng, vì bên nước Tàu có nhiều nhà biết thiên văn, hay khoa coi bói họ giỏi.

                     Đôi lứa chung vầy duyên bói phượng,

                     Năm cung nhạc trỗi khúc cầm loan.

                                                (Thơ Thuần Đức).

        2.- Bói nói tắt của từ “Xoi bói”, có nghĩa là chú ý tìm và moi móc những sai sót, lỗi lầm nhỏ của người khác.

        Như: Bói đâu ra tiền, anh ấy hay xoi với bói những chuyện của người khác.

                     Mọi việc nên dạy biết học đòi,

                     Sự nhơ nhớp để lời xoi với bói.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BÓI PHƯỢNG

        Hay “Bói phụng

        Bói: Gieo quẻ xem sự kiết, hung. Phượng (phụng): Chim phụng hoàng.

        Bói phượng tức là bói được quẻ chim phượng, chim hoàng sánh đôi, chỉ việc kết duyên vợ chồng.

        Do tích trong Tả Truyện: Quan Đại phu nước Trần là Ý Thị muốn gả con gái cho Kính Trọng, bèn bảo vợ đi bói xem một quẻ, quẻ có câu rằng: Thị vị phượng hoàng vu phi, hoà minh tương tương… 是 謂 鳳 凰 于 飛, 和 鳴 鑲 鑲, nghĩa là hai trẻ sánh duyên như chim phượng chim hoàng sánh bay, tiếng hót vang vang.

                     Đôi lứa chung vầy duyên bói phượng,

                     Năm cung nhạc trỗi khúc cầm loan.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BOM ĐẠN

        Bom: Một thứ vũ khí vỏ bằng kim loại, ở trong chứa thuốc nổ, có sức công phá lớn, do máy bay thả xuống.

        Đạn: Khối kim loại tròn, nhọn được bắn đi bằng súng để phá hoại mục tiêu, hoặc sát thương.

        Bom đạn là bom và đạn, những thứ vũ khí giết người, hoặc dùng trong chiến tranh hiện đại.

                     Bom đạn nổ đền chùa sụp đổ,

                     Xác thây người chật lộ đầy sông.

                                                (Nguyễn Trung Trực Giáng).

BOM NGUYÊN TỬ

        Bom: Một thứ vũ khí vỏ bằng kim loại, ở trong chứa thuốc nổ, có sức công phá lớn, do máy bay thả xuống.

        Nguyên tử: Phần tử nhỏ nhất của nguyên tố hoá học, gồm hạt nhân ở giữa, một hay nhiều electron xung quanh.

        Bom nguyên tử là loại bom dùng nguyên lý phản ứng tan vỡ của hạt nhân nguyên tử nặng, phóng ra năng lượng lớn, có sức giết người rộng và phá hoại mạnh gấp nhiều lần bom thông thường.

        Trong Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp có câu: Loài người quá xảo quyệt khôn khéo tiềm tàng sự sung sướng xác thịt nầy, tại do đó mà gây nên biết bao nhiêu thần sầu quỷ khóc, chiến tranh không ngớt, là do nơi lòng tham lam tiến triển văn minh, cơ khí tối tân như là bom nguyên tử để giết người.

                     Bom nguyên tử đến hồi tung nổ,

                     Biến cảnh trần như chỗ hoang vu.

                                                (Nguyễn Trung Trực Giáng).

BON CHEN

        Bon: Lần đi, chạy nhanh. Chen: Len, lẫn vào giữa.

        Bon chen là tranh cạnh và giành giựt để cố cầu danh hoặc mưu lợi.

        Như: Người tu hành không nên bon chen vào đường danh nẻo lợi.

                     Vui lòng hai buổi có tương dưa,

                     Không phải bon chen, khỏi mắc lừa!

                                                (Thơ Hàn Sinh).

BÒN

        Bòn là thu, góp nhặt từng ít một. Như: Bòn từng đồng từng cắc, bòn tro đãi trấu.

        Như: Vùng đất bị hạn hán phải bòn từng gáo nước để uống, bòn từng đồng từng cắc.

                    Túng lúi đi chơi nên tấp lại,

                     Ăn bòn chẳng chịu tấp theo ai.

                                                (Đạo Sử).

                     Dầu mình giàu rộng thế xa hoa,

                     Cũng nhớ mẹ ở nhà bòn cắc nhỏ.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BÒN CÔNG CHUỘC QUẢ

        Bòn công: Đóng góp công quả từng ít một. Chuộc quả: Lấy công để chuộc lại nghiệp quả.

        Bòn công chuộc quả ý muốn nói đóng góp công quả từng ít một để chuộc lại những quả nghiệp đã gây ra.

Thầy lập cho các con một trường tại thế hầu chen lấn với nhau bòn công chuộc quả mà chờ ngày quy vị.

                                                (Ngọc Hoàng Thượng Đế).

BÒN MÓT

        Bòn: Thu nhặt từng ít một. Mót: Nhặt nhạnh của để rơi vãi hoặc bỏ sót.

        Bòn mót là bòn từng ly từng tí, không để sót hoặc rơi vãi phí phạm.

        Như: Bòn mót từng hạt lúa để dành.

Một người ăn mày cầm Bình Bát đi xin cơm đặng nuôi kẻ khó kẻ đói, đi bòn mót từ miếng vải rách đặng chằm khíu mặc cho lành, tức là Đức Phật Thích Ca.

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

BỌN

        Bọn là một đoàn, một lũ. Như: Bọn học trò, đi thành bọn năm bảy người, bọn trẻ chơi nghịch ngoài đường.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: Vậy Thầy lại thấy một bọn môn đồ, khi đến nói đạo với kẻ nào thì thẹn thuồng ái ngại. Phải nghịch chánh lý chăng?

                     Chuyên gìn Tứ đức với Tam tùng,

                     Làm hiệu dạy lần bọn nữ trung.

                                                (Đạo Sử).

                     Tránh những bọn tay dơ miệng xấu,

                     Hễ trị người phải biết thấu tánh tâm người.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BÓNG

        1.- Bóng là vùng không được ánh sáng chiếu tới do bị một vật che khuất, hoặc hình của vật ấy chiếu trên nền.

        Như: Bóng cây trên đường, thả mồi bắt bóng, cây cao bóng cả, nàng về chiếc bóng song the.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh giáo Thầy có câu: Con lấy làm hữu hạnh gặp đặng Thầy dìu bước trong nẻo Đạo nhiệm mầu lúc non chiều bóng xế.

                     Bóng trải diềm dà xuân đợi chúa,

                     Tiết nồng thơ thới hạ khoe sen.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Chờ trưa e nỗi bóng Trời nghiêng,

                     Lỡ bước e đưa chẳng gặp thuyền.

                                                (Đạo Sử).

                     Ngày chờ mây áng ngàn dâu khuất,

                     Đêm bặt đèn khuya một bóng nhìn.

                                                (Đạo Sử).

        2.- Bóng là tia sáng, ánh sáng.

        Như: Bóng nắng xuống thềm, bóng trăng mờ ảo, bóng ác, bóng nguyệt, bóng thỏ.

                     Vườn trước ngơ trông cây liễu rũ,

                     Non xưa chạnh nhớ bóng trăng tà.

                                                (Đạo Sử).

        2.- Bóng là cái hình soi vào nước hoặc mặt phẳng hay gương mà phản chiếu ra.

        Như: Soi bóng trong gương, bóng cây in xuống nước.

                     Soi bóng nước đặng nhìn thấy dạng,

                     Thấy nghi dung hết mặn nét ngài.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

        3.- Bóng là hình dạng nhìn không rõ nét, hoặc có hình thấp thoáng.

        Như: Bóng núi trong sương mù, bóng dáng mập mờ.

                     Ngọ chưa thấy bóng kế Mùi sang,

                     Trông đặng vinh huê hưởng chữ nhàn.

                                                (Đạo Sử).

        4.- Bóng là bóng của người có thế lực, quyền uy, dùng để ví sự đùm bọc, che chở.

        Như: Núp bóng tùng quân, nương bóng từ bi.

        Thuyết Đạo Đức Thượng Sanh có câu: Trong bước đường tu, dưới bóng từ bi bác ái của Đức Chí Tôn, ước mong những lời dạy bảo ấy sẽ giúp ích mãy may cho những đạo hữu ham tìm ánh sáng của chơn lý.

                  Xủ áo trần hoàn đã rảnh tay,

                     Thung dung nhờ núp bóng Cao Đài.

                                                (Đạo Sử).

                     Vui bóng Cao Đài che khắp chốn,

                     Vui gương Ngọc Đế thấy như nhiên.

                                                (Đạo Sử).

        5.- Bóng chỉ một vật có bề mặt đánh nhẵn, láng, có thể soi được.

        Như: Sáng bóng, bào trơn đánh bóng.

                     Dưới mắt thấy lắm tay đánh bóng,

                     Theo gái giàu như bóng theo chàng.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        6.- Bóng là hồn vía của người chết nhập vào xác người nào đó, gọi là bóng, đồng.

        Như: Ngồi bóng, bóng cô, bóng cậu, bóng chàng.

                     Dưới mắt thấy lắm tay đánh bóng,

                     Theo gái giàu như bóng theo chàng.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        7.- Bóng là màng nước hình cầu nhỏ do không khí làm phồng lên, nổi trên mặt nước.

        Như Bóng bọt, bóng nước trôi trên sông.

Chàng thì biển cả vơi vơi,

Thiếp như bóng bọt giữa vời linh đinh.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BÓNG ÁC

        Bóng: Ánh sáng do mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Ác: Chim quạ.

        Bóng ác, đồng nghĩa với “Bóng ô”, là bóng con chim quạ, dùng để chỉ bóng mặt trời.

        Tương truyền trên mặt trời có con quạ, nên người ta gọi mặt trời là bóng ác, bóng ô, hay ác vàng.

                     Bóng ác hừng trời đêm sắp dứt,

                     Tiếng gà dậy đất cảnh hầu thay.

                                                (Thơ Thuần Đức).

                     Châu về hớn hở màu xuân đến,

                     Lan nở tươi cười bóng ác xây.

                                                (Thơ Thượng Cảnh Thanh).

BÓNG BỌT

        Bóng: Những bọt do hạt mưa xuống tạo thành, nổi trên mặt nước. Bọt: Bong bóng nhỏ.

        Bóng bọt tức là cái bọt bong bóng nổi trên mặt nước, trôi giạt lênh đênh, dễ tan vỡ, ví thân phận người phụ nữ.

Chàng thì biển cả vơi vơi,

Thiếp như bóng bọt giữa vời linh đinh.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BÓNG CÂU

        Bóng: Hình dạng nhìn không rõ nét, hoặc có hình thấp thoáng. Câu 駒 (cu): Loài ngựa tốt.

        Bóng câu do chữ “Bạch Câu quá khích 白 駒 過 隙” tức là bóng ngựa trắng qua khe hở, dùng để chỉ thời gian trôi qua nhanh.

        Sách Sử Ký chép lời Trương Lương nói: Nhân sinh nhất thế gian như bạch câu quá khích, hà chí tự khổ như thử 人 生 一 世 間 如 白 駒 過 隙, 何 至 自 苦 如 此, nghĩa là người ta sinh ra trong đời như bóng bạch câu qua khe hở, cần gì phải làm khổ mình đến như vậy?

Nào dè Tiên cảnh rẽ phân,

Khác gì cửa sổ thoạt lần bóng câu.

                                                (Thơ Thượng Cảnh Thanh).

                     Bóng câu vừa khuất nơi trần thế,

                     Hồn phách đã lên chốn cõi Bồng.

                                                (Thơ Thuần Khiết),

BÓNG CU

        Bóng: Hình dạng nhìn không rõ nét, hoặc có hình thấp thoáng. Cu 駒 (câu): Loài ngựa tốt.

        Bóng cu, như chữ “Bóng câu”, do thành ngữ “Bạch Câu quá khích 白 駒 過 隙”, tức là bóng ngựa trắng qua khe hở, dùng để chỉ thời gian trôi qua nhanh.

        Xem: Bóng câu.

                     Đoái xem lại trần dường thể tuyết mù,

                     Nhìn cuộc thế tợ bóng cu vó ngựa,

                                                (Giác Mê Khải Ngộ).

BÓNG CHIM TĂM CÁ

        Bóng chim: Bóng của chim (nhạn), do điển “tin nhạn”, chỉ tin tức.

        Tăm cá: Tăm tích của cá, lấy điển từ tin cá, ý nói về thư từ, tin tức.

        Bóng chim tăm cá là một thành ngữ dùng để chỉ hình bóng của chim, tăm dạng của cá, có ý nói thư từ, tin tức do chim nhạn, hồng, hay cá mang đến.

        Bóng chim tăm cá cùng nghĩa với “Tin chim thư cá”. Xem: Tin chim thư cá.

                     Cách trở ngàn trùng khôn giáp mặt,

                     Bóng chim tăm cá bặt từ lâu.

                                                (Thơ Thiên Vân).

BÓNG DÂU

        Bóng dâu, do chữ “Tang du 桑 榆”, dùng để nói cảnh về chiều hay chỉ tuổi già.

        Tương truyền ở biển tây có cây “Tang du 桑 榆”, mặt trời đến đó thì lặn, nên người ta dùng chữ “Tang du” để chỉ cảnh mặt trời chiều hay chỉ tuổi già gọi là “Tang du vãn ảnh 桑 榆 晚 影”.

        Tang du còn có nghĩa là phương tây, nên câu “Nhật lạc tang du 日 落 桑 榆” là mặt trời lặn về hướng tay, nói cảnh người già.

                     Vùn vụt thời gian đã xế tà,

                     Bóng dâu vừa ngả, tóc sương pha.

                                                (Thơ Thiên Vân).

BÓNG DỜN

        Bóng: Có bề mặt nhẵn, láng đến mức phản chiếu được ánh sáng.

        Bóng dờn, như chữ “Bóng láng”, “Bóng lộn”, là bóng đến mức nhìn thấy cả sự trơn láng, mượt mà.

        Như: Mặt bộ ván bóng dờn.

Áo quần hàng lụa bóng dờn,

Năm thê bảy thiếp tình nhơn cũng nhiều.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

BÓNG DƯƠNG

        Bóng: Ánh sáng do mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Dương: Thái dương, chỉ mặt trời.

        Bóng dương là chỉ bóng mặt trời.

        Vầng thái dương (Mặt trời) tượng trưng cho vua, nên bóng dương cũng dùng để chỉ nhà vua.

                     Bóng dương tỏ rạng lố chơn mây,

                     Đầm ấm hơi xuân nở mặt mày.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BÓNG HÌNH

        Bóng: Hình ảnh không rõ nét. Hình: Dung mạo của một vật bày ra ngoài.

        Bóng hình, như chữ “Hình bóng”, là chỉ cái hình ảnh không rõ nét, hoặc thấp thoáng.

        Điếu văn của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Chưởng Quản Nữ phái, đọc trước Liên đài của Đức Thượng Sanh có câu: Đức Ngài đăng Tiên lẽ dĩ nhiên nơi cửa Đạo từ đây vắng bóng hình, sao khỏi ngậm ngùi thương xót đau buồn, ấy là thường tình thế sự.

                     Vói nhắn khách Dạ đài có tưởng,

                     Vậy bóng hình để tướng nơi nao?

                                                (Kinh Thế Đạo).

                     Từ độ ấy bóng hình biệt dạng.

                     Hạc với gà đôi bạn đồng tâm,

                                                (Thơ Hộ Pháp).

BÓNG HỒNG

        Bóng: Hình dạng nhìn không rõ nét, hoặc có hình thấp thoáng. Hồng 紅: Màu hồng.

        1.- Bóng hồng, bởi chữ “Mỹ nhân hồng ảnh 美 人 紅 影”, tức là bóng hồng của người đẹp, ý muốn diễn tả dáng điệu, hình bóng của người phụ nữ đẹp.

                     Nhị châu Chơn võ nhớ cùng không,

                     Nương cõi Thiên cung gởi bóng hồng.

                                                (Nhị Nương Giáng Bút).

Ngôi Thiên để dựa bóng hồng,

Phục hưng gầy nghiệp con Rồng cháu Tiên.

                                                (Bát Nương Giáng Bút).

        2.- Hồng 鴻: Một thứ chim thuộc về loài ngỗng.

        Bóng hồng, chỉ bóng con chim hồng, hay hồng tín, dùng để nói về thư từ tin tức.

        Xem: Tin nhạn.

                     Một chiếc quạnh bóng hồng nháng ngọn,

                     Mây đoanh non tuyết đóng nhành thông.

Về nam đỗ cánh rừng tòng,

Ngút xem tủa án cây đông khoả rèm.

                                                (Lục Nương Giáng Bút).

        3.- Bóng hồng còn dùng để chỉ ánh sáng màu đỏ, hoặc bóng mặt trời.

        Như: Chiều tà bóng hồng đã khuất núi.

                     Kìa chiếu diệu bóng hồng Bắc Đẩu,

                     Kìa im lìm phúc hậu Nam Tào.

                                                (Kinh Tận Độ).

                     Bóng hồng lố cánh thoàn thơ thới,

                     Thiện niệm chờ cạn gởi nỗi đau.

                                                (Nhàn Âm Đạo Trưởng).

BÓNG KHUẤT

        Bóng: Ánh sáng mặt trời, hình bóng. khuất: Che khuất hay mất đi, chỉ sự chết.

        1.- Bóng khuất là bóng mặt trời bị núi non, cây cối che khuất, chỉ mặt trời về chiều.

                     Cúc rải đường qua vang tiếng nhạn,

                     Rừng tà bóng khuất vẳng hơi thung.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

        2.- Bóng khuất, đồng nghĩa với “Khuất bóng”, nghĩa là hình bóng đã khuất, ý muốn nói đã chết rồi.

Việc lành, việc dữ đồn vang

Tuy là bóng khuất xương tan tiếng còn.

                                                (Kinh Sám Hối).

                     Lịch sử lưu đời dầu để dấu,

                     Muôn năm bóng khuất tiếng thơm còn.

                                                (Thơ Chánh Đức).

BÓNG MÁT CỘI TÒNG

        Bóng mát: Nơi được che mát, ánh nắng không soi tới. Cội tòng (tùng): Gốc cây thông.

        Bóng mát cội tòng (tùng), ý chỉ người chồng, là nơi che chở và nương cậy của người đàn bà theo chồng.

        Bóng mát cội tòng (tùng) đồng nghĩa với câu núp bóng tùng quân.

                     Phải dòm coi bóng mát cội tòng,

                     Biết lựa mặt anh hùng trao tấm phận.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BÓNG NGÀ NỮ DUNG

        Bóng ngà: Cũng như chữ “Bóng ngọc”, chỉ người con gái đẹp.

        Nữ dung: Hình dáng người con gái đẹp.

        Bóng ngà nữ dung chỉ dáng vẻ hay hình bóng người phụ nữ đẹp.

Vợ con thay phận mẹ già,

Nuôi con mẹ cậy bóng ngà nữ dung.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BÓNG NGÂN

        Bóng: Ánh sáng mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Ngân 銀: Bạc, màu bạc.

        Ánh sáng mặt trời soi xuống màu sáng bạc, mà bạc là ngân, nên người xưa gọi bóng mặt trời là “Bóng ngân”.

Ba đào qua, lố bóng ngân,

Toàn cầu cả thấy nhân quần đắp xây.

                                                (Xuân Hương Giáng Bút).

BÓNG NGỌC

        Bóng: Ánh sáng mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Ngọc: Châu ngọc, ngà ngọc.

        Bóng ngọc, nói tắt của “Bóng thỏ ngọc”, chỉ bóng mặt trăng.

        Giả Đảo có câu: Ngọc thố đàm để một 玉 兔 潭 底 沒, nghĩa là ngọc thỏ ở dưới đáy đầm lặn mất.

        Bóng ngọc còn dùng để chỉ bóng dáng người ngọc, tức bóng dáng người con gái đẹp đẽ.

                     Dưới trăng bóng ngọc còn nguyên,

                     Ôm bình, bao tóc sang hèn cũng cam.

                                                (Kinh Thế Đạo).

BÓNG NGUYỆT

        Bóng: Ánh sáng mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Nguyệt 月: Mặt trăng.

        Bóng nguyệt tức là bóng mặt trăng.

        Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du Tiên sinh có câu: Chênh chênh bóng nguyệt xế mành, Tựa nương bên triện một mình thiu thiu.

                     Thử sánh ngọn đèn cùng bóng nguyệt,

                     Gió lay đèn tắt, nguyệt làu làu.

                                                (Giới Tâm Kinh).

                     Đường về muốn vẹn để công trình,

                     Bóng nguyệt tua dò nẻo rạng thinh.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BÓNG NHẬT

        Hay “Bóng nhựt”.

        Bóng: Ánh sáng mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Nhật (Nhựt): Mặt trời.

        Bóng nhật (Nhựt), đồng nghĩa với bóng dương, là chỉ bóng mặt trời.

                     Rừng thung bóng nhựt đã hầu chinh,

                     Tỏ rạng gần nơi bước vẹn gìn.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Đạo đức gắng theo đỡ ít nhiều,

                     Ngày thâu bóng nhựt đã hầu xiêu.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

BÓNG QUẠ

        Bóng: Ánh sáng mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Quạ: Đồng nghĩa với chữ “Ô, ác”, chỉ con quạ.

        Bóng quạ, như chữ “Bóng ô”, là bóng con chim quạ, dùng để chỉ bóng mặt trời.

        Xem: Bóng ác.

                  Kiếp sống thác cuộc trần mau như bóng quạ,

                  chốn phù sanh trăm thu như lửa đá nháng nào lâu.

                                                (Giác Mê Khải Ngộ).

BÓNG QUANG ÂM

        Bóng: Ánh sáng. Quang 光: Sáng, chỉ ngày. Âm 陰: Bóng tối, chỉ đêm. Quang âm: Ngày đểm, chỉ thời gian.

        Bóng quang âm là bóng của ánh sáng và bóng tối, ở đây chỉ ngày đêm thay đổi với nhau, hay nói cách khác là thời gian trôi qua đi.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có câu: Ngày qua thấm thoát, nhặt thúc bóng quang âm, xuân mãn kế xuân về, nước non màu cũng vẫn như xưa mà tâm hạnh nhơn tình biết bao thay đổi.

                  Việc sanh tử như dường chớp nháng,

                  Bóng quang âm ngày tháng dập dồn.

                                                (Kinh Sám Hối).

BÓNG QUẾ

        Bóng: Ánh sáng mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Quế 桂: Cây quế.

        Tục truyền trên mặt trăng có cây quế, nên “Bóng quế” được dùng để chỉ mặt trăng.

        Theo Dậu Dương Tạp Trở, có người họ Ngô tên Cương ở đất Tây Hà, học được phép Tiên, có lỗi bị phạt chặt cây quế cao năm trăm trượng ở cung trăng, nhưng khi đốn xong, cây quế lại liền như cũ.

Hồn ma bóng quế cũng lên ngồi, mà ngạ quỷ vô thường cũng xẩn bẩn, đó là phương đem đường cho Quỷ vương, chẳng một ai tránh được.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BÓNG SẮC

        Bóng: Hình bóng. Sắc: Nhan sắc, chỉ vẻ đẹp của người phụ nữ.

        Bóng sắc là hình bóng và nhan sắc, tức chỉ chung sắc đẹp của người đàn bà, con gái.

Bởi ham bóng sắc hơn chì,

Mỹ nhân thấy dạng kể gì đến duyên.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

                     Chẳng chịu chồng thương kẻ hơn mình,

                     Giận sao có dể khinh bóng sắc.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

BÓNG TANG DU

        Bóng: Ánh sáng mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Tang du: Một loại cây ở biển Tây, dùng để nói cảnh về chiều hay chỉ tuổi già.

        Bóng tang du, bởi chữ “Nhật lạc tang du 日 落 桑 榆” , là mặt trời lặn xuống ở gốc cây dâu, cây du, có nghĩa bóng nắng buổi chiều, ý chỉ cảnh già.

        Nhân đó, người ta nói cảnh tượng người già gần chết thì nói: “Tang du vãn ảnh 桑 榆 晚 境”.

                     Xác thịt trải qua miền gió bụi,

                     Nắm xương nhờ gởi bóng tang du.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BÓNG TỐI

        Bóng: Vùng không được ánh sáng chiếu tới do bị một vật che khuất. Tối: Không có ánh sáng.

        Bóng tối là phần không gian không có ánh sáng rọi tới nơi đó.

        Khi giải thích về Đạo, Giáo Lý của Tiếp Pháp Trương Văn TRàng có đoạn viết: Cái bản thể ấy phía trên không phản chiếu ánh sáng, phía dưới không ẩn khuất bóng tối, vằng vặc mà chẳng có tên, rồi lại trở về chỗ không vật. Thật Đạo là hình trạng của cái vô hình, là tượng của cái vô vật.

                     Mảng sầu muộn ngổn ngang trăm mối,

                     Chùa thu không bóng tối mịt mờ.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BÓNG TÙNG

        Bóng: Vùng không được ánh sáng chiếu tới do bị một vật che khuất.

        Tùng 松 (tòng): Cây tòng, cây thông, một loài cây thẳng, cao to, cành lá xum xuê suốt bốn mùa, được người xưa ví với người quân tử.

        Bóng tùng chỉ bóng của người chồng, nơi che chở và nương cậy của người vợ, vì thế, người đàn bà theo chồng gọi là núp bóng tùng quân.

                     Dìu nhau trở bước lại rừng thung,

                     Đằng cát may đưa dựa bóng tùng.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Tại nơi chích mát bóng tùng,

Trần hoàn vì nỗi đau lòng hồng nhan.

                                                (Đạo Sử).

BÓNG THIỀM

        Bóng: Ánh sáng mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Thiềm: Con thiềm thừ ở trên cung trăng.

        Bóng thiềm, bởi chữ “Thiềm ảnh 蟾 影”, nghĩa là bóng của con thiềm thừ.

        Do tích Hằng Nga sau khi trộm thuốc tiên của chồng là Hậu Nghệ, uống vào thành tiên lên ở cung trăng và hoá thành con thiềm thừ. Nên mặt trăng được gọi là “Bóng Thiềm” hay “Thiềm cung”, “Cung thiềm”.

        Xem: Cung thiềm.

                     Khêu ngọn hoa đăng tỏ bóng thiềm,

                     Trăng ba canh sáng đọng cành chim.

                                                (Thơ Hoàng Nguyên).

BÓNG THIỀU

        Bóng: Ánh sáng. Thiều: Mùa xuân.

        Bóng thiều, bởi chữ “Thiều quang 韶 光” là ánh sáng đẹp chỉ mùa xuân, hoặc thời gian.

        Thánh Giáo có câu: Đạo Trời khai dẫn bước lỗi lầm, đem kẻ hữu căn lánh vòng phiền não. Nếu chẳng bả bươn nhặt thúc bóng thiều, kiếp phù sinh qua dường nháy mắt.

                     Hương huê đã nực bóng thiều qua,

                     Tưởng chút nghĩa xưa thắt ruột rà.

                                                (Đạo Sử).

                     Thưa nhặt thoi đưa cái bóng thiều,

                     Anh hùng xuất thế biết bao nhiêu.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

                     Mịt mịt mây bay cuộn bóng thiều,

                     Trời thu ướt át cảnh buồn hiu.

                                                (Thơ Thượng Sanh).

BÓNG THỎ

        Bóng: Ánh sáng mặt trời, mặt trăng rọi xuống. Thỏ: Giống thú thuộc loài gậm, ăn cỏ, lấy lông làm bút.

        Bóng thỏ, bởi chữ “Thố ảnh 兔 影”, tức là bóng con thỏ, chỉ bóng mặt trăng.

        Tương truyền, trên mặt trăng có một con thỏ bạch. Vì vậy, trong văn chương người ta thường dùng chữ “Bóng thỏ”, “Thỏ bạc” để chỉ mặt trăng.

                     Xào xạc sân ngô rơi chiếc lá,

                     Tròn vo bóng thỏ lộng ngàn phương.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BÓP MÉO

        Bóp: Lấy tay nắm chặt và siết mạnh một vật gì trong lòng bàn tay. Méo: Đồ vật gì sai hẳn cái hình nhất định.

        Bóp méo là do dụng ý không tốt, nên làm cho hay trình bày cho sai lệch sự thật.

                     Cúi ngửa giữ cho lòng khỏi thẹn,

                     Mặc ai toan bóp méo ra tròn.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BỌT

        1.- Bọt là những bong bóng do nước tạo thành, nổi trôi trên ngọn sóng ở ngoài ghềnh, dễ tan vỡ.

        Như: Bọt nước, bọt bia tràn đầy ly, bọt xà phòng đầy thau quần áo.

                     Mảng đeo đai hai chữ vận thời,

                     Như bèo bọt nổi trôi giòng khổ thuỷ.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Phú quý dường mây treo dưới gió,

                     Lợi danh như bọt nổi trên dòng.

                                                (Thơ Cao Liên Tử).

BỌT NƯỚC

        Bọt: Những bong bóng nhỏ do nước tạo thành, nổi trôi trên ngọn sóng ở ngoài ghềnh, dễ tan vỡ. Nước: Chất lỏng không màu, không mùi và trong suốt.

        Bọt nước được dùng để chỉ sự trôi nổi, linh đinh, không có định sở, hay mỏng manh tạm bợ dễ tan vỡ như bọt nước.

        Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Đời mộng ảo nầy, sự còn mất như bọt nước mây bay, khá quy chánh cải tà, nắm giữ lòng thiện niệm thì một mai mới tránh khỏi bẫy vô thường của Quỷ vương đương giành xé.

                     Sang hèn bọt nước hay vày vẽ,

                     Vinh nhục đám mây khéo cợt trò.

                                                (Thơ Chánh Đức).

BÔ VẢI

        : Một loại cây trồng, dùng để dệt vải. Vải: Đồ dệt bằng sợi bông.

        Bô vải là vải dệt bằng sợi bô, một loại vải thô, kẻ ẩn dật hay người tu thường dùng để tạm che thân.

        Thánh giáo Chí Tôn có dạy: Vì tại sao Thầy muốn các con mặc đồ bô vải chăng? Vì bô vải là tấm gương đạo đức, các con đã rõ đạo thì biết đức cần kiệm là đức hạnh đầu trong lúc các con còn ở thế gian nầy.

                     Lục chu may trộn giống màu thanh,

                     Bô vải mà che một tấc thành.

                                                (Đạo Sử).

                     Bô vải bốn mùa che ấm lạnh,

                     Nghèo mà cho sạch, rách cho thơm.

                                                (Thơ Thuần Đức).

BỐ

        1.- Bố tức là cha, tiếng thời xưa dùng để xưng, gọi cha là “Bố”, mẹ là “Cái”.

        Như: Bố chồng, bố vợ, con giống bố, bố mẹ giàu con có bố mẹ khó con không.

Thuở mà nòi giống nầy còn kêu cha là bố và mẹ là cái, kẻ nào đạt được vị Bố Cái hương đảng, tức là cha mẹ của hương đảng, …

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

        2.- Bố 布 là vải, đồ dệt bằng sợi bông để may quần áo mặc, không dùng một mình.

        Như: Bố kinh (quần bằng vải, trâm bằng gai), bố quần kinh thoa.

                     Cùng nhau giữ trọn hương nguyền,

                     Cái duyên kinh bố là duyên Châu Trần.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

        3.- Bố 布, còn đọc là “Bá”, là chia bày ra, truyền rộng ra, không dùng một mình.

        Như: Dán bố cáo cho mọi người biết, đem tiền bố thí cho người khuyết tật.

        Thánh giáo Đức Chí Tôn có đoạn dạy: Vì vậy mà nhiều sự xảy ra đều do nơi tâm chí của nhiều đứa. Thầy hằng dùng tâm chí của các con mà bố mọi điều thiết yếu trong việc đạo đức.

                     Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát.

                     Bố từ bi tế bạt vong hồn,

                                                (Kinh Tận Độ).

                     Tiền nhân bố đức khai cơ nghiệp,

                     Hậu đại nhớ ơn dựng thổ cương.

                                                (Thơ Huệ Giác).

BỐ CÁO 布 告

        Bố: Tuyên cáo rộng ra, chia bày ra. Cáo: Báo cho biết, xin phép, trình thưa.

        Bố cáo, như chữ “Bá cáo 播 告’, là phổ biến hoặc truyền rộng ra cho ai nấy đều biết.

        Trong quyển Giáo Lý, Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng giải thích việc hôn về phần Thế Luật có viết: Trước lễ thành hôn tám ngày, chủ hôn trai phải dán bố cáo tại Thánh Thất sở tại, gọi là Bát Nhựt. Ấy là ngừa sự trắc trở về sau. Lễ hôn phối cần cầu chứng nơi Thánh Thất sở tại.

Tám ngày trước lễ sính, chủ hôn trai phải dán bố cáo nơi Thánh Thất sở tại cho trong bổn đạo hay, sau khỏi điều trắc trở.

                                                (Tân Luật).

BỐ ĐỨC 布 德

        Bố: Bày ra khắp nơi. Đức: Những điều nhân đức.

        Bố đức là ban bố điều nhân đức rộng khắp cho tất cả mọi người.

        Như: Thi ân bố đức, Đức Chí Tôn khai đạo Cao Đài là bố đức cho toàn thể sanh chúng.

                     Tiền nhân bố đức khai cơ nghiệp,

                     Hậu đại nhớ ơn dựng thổ cương.

                                                (Thơ Thượng Sanh).

                     Bố đức độ đời ơn Phật thưởng,

                     Thi nhân tế chúng phước Trời ban.

                                                (Thơ Thái Đến Thanh).

BỐ ĐỨC THI ÂN

布 德 施 恩

        Bố đức: Ban bố điều nhân đức khắp nơi. Thi ân: Thi hành ơn huệ.

        Bố đức thi ân hoặc thi ân bố đức, là nói người thường hay làm ơn, tạo phước đức rộng khắp nơi.

        Xem: Thi ân bố đức.

Biết lo bố đức thi ân,

Luân hồi trở lại hưởng phần cao sang.

                                                (Đại Thừa Chơn Giáo).

BỐ HOÁ 布 化

         Bố: Truyền khắp, truyền rộng. Hoá: Thay đổi, dạy dỗ để thay đổi từ dốt nát ra hiểu biết, từ xấu ra tốt.

         Đem những điều hiểu biết ra dạy dỗ khắp hết mọi người để sửa đổi từ xấu thành tốt, từ ác trở nên lành, đó gọi là Bố hoá.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy dạy: Trung! đã thọ mạng nơi Thầy, con đi đâu Thầy theo đó. Lời đạo đức trong miệng con nói ra, ấy là lời Thầy bố hoá tâm trí con đặng đi truyền đạo, tuỳ cơ mà dạy kẻ, một mình con đâu đủ sức phục người.

                     Bố hoá người đời gây mối Đạo

                     Gia ân đồ đệ dựng nền nhân

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

Đạo Thánh mở, phú một tay truyền bá, lãnh mạng Trời bố hoá khắp hoàn cầu,

Giọt sương gieo, vì trăm họ khát khao, vưng Thánh giáo rưới nhuần võ lộ.

                                                (Văn Tế Thượng Phẩm).

BỐ KINH 布 荊

        Bố: Vải, hàng dệt bằng sợi bông, thường thô. Kinh: Một thứ cây gai, dùng dệt vải.

        Bố kinh, do thành ngữ “Bố quần kinh thoa 布 裙 荊 釵”, nghĩa là quần bằng vải bô, trâm cài đầu bằng gai, dùng để chỉ người vợ giản dị, hiền đức.

        Bố kinh, lấy điển tích nàng Mạnh Quang khi về nhà chồng lột bỏ hết đồ gấm lụa, trang sức quý giá để mặc áo vải bô, dùng gai làm thoa giắt tóc (Kinh thoa bố quần), rồi theo chồng làm việc.

        Chữ “Bố kinh” và các từ kinh nhơn, kinh phụ, sơn kinh, chuyết kinh cũng dùng để chỉ người vợ hiền thục.

                     Nếu gặp phước bố kinh đáng khách,

                     Biết yêu hoa dưới ngạch phòng thu.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

Vì chàng thiếp kết bố kinh,

Giữ câu thệ hải sơn minh với nàng.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BỐ THÍ 布 施

        Bố: Truyền khắp, truyền rộng ra. Thí: Cho, tặng để cầu phước.

        Bố thí là giúp đỡ rộng rãi, trao tặng những vật chất và tinh thần của mình cho người, làm lợi ích người.

        Có ba loại bố thí:

                  - Tài thí: Bố thí bằng tiền bạc, vật chất.

                  - Pháp thí: Bố thí bằng chánh pháp như thuyết pháp, truyền bá giáo lý, in ấn kinh sách.

                  - Vô uý thí: Bố thí bằng cách làm cho người ta hết sợ hãi, trấn an người.

        Bố thí còn có nghĩa là cấp cho với ý ban ơn, không có lòng thương xót và tỏ ý khinh miệt.

Chánh Phủ bị lo lắng điều gay trở khó khăn nên chỉ bố thí một số tiền vậy thôi, chớ nào có thì giờ rảnh đặng để tâm lo lắng đến sự sống cho thiên hạ.

                                                (Thuyết Đạo Hộ Pháp).

BỐ TRÍ 布 置

        Bố: Tuyên cáo ra, chia bày ra. Trí: Đặt để.

        Bố trí là xếp đặt, tức là sắp xếp theo một trật tự và theo một dụng ý nhất định.

        Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh có câu: Nếu Lịnh Bà (Quan Âm Bồ Tát) lấy lòng từ bi thương tình dìu dắt Nữ phái thì đệ tử cũng nhứt nguyện lo lắng với mấy anh cho hoàn toàn, nhưng xin Lịnh Bà bố trí cho đệ tử hành sự đặng trọn.

Bố trí cho chư Đạo hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BỒ

        1.- Bồ là vật đan thành tấm bằng tre hoặc nứa, dùng khoanh tròn lại để chứa, đựng.

        Như: Bồ lúa, miệng Nam mô đựng bồ dao găm.

        Ca dao có câu: Dốc bồ thương kẻ ăn đong, Vắng chồng thương kẻ nằm không một mình.

                     Cha mẹ giàu để con bồ lúa,

                     Cha mẹ nghèo để đũa ăn cơm.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        2.- Bồ 蒲 là tên một thứ cỏ có thân mềm yếu, nên người xưa thường ví với người con gái.

        Như: Bồ liễu, phận bồ, bồ tiên

                     Hễ người mạnh thì hay cậy sức,

                     Phận liễu bồ lấy lực mưu mô.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        3.- Bồ 菩, viết tắt của chữ “Bồ đề 菩 提”, là tên một thứ cây có hạt dùng để xâu chuỗi, thuộc về Phật.

        Ngày xưa, dưới gốc cây bồ đề là nơi Đức Phật tu hành đắc Đạo. Vì vậy từ “Cửa bồ đề” dùng để chỉ cửa Phật hay cửa chùa. Như: Cửa bồ, chuỗi bồ.

Chuỗi bồ trừ nghiệt gió trăng,

Linh đơn cứu kẻ khổ phần liễu hoa.

                                                (Nữ Trung Tùng Phận).

BỒ BẶC 匍 匐

        Bồ bặc là bò đi hay đi một cách khúm núm.

        Bồ bặc còn một nghĩa là giúp đỡ trong việc tang ma.

Sách xưa có câu: “Bồ bặc bôn tang 匍 匐 奔 喪”, tức bò lấp xấp về chịu tang, bởi thương quá không đi được phải chống tay mà bò về.

                     Cảm nghĩa chi lan hoà nỗi thảm,

                     Tưởng câu bồ bặc khấn hương nồng.

                                                (Thơ Huệ Ngàn).

BỒ ĐỀ 菩 提

        1.- Bồ đề là cây Bồ đề, một loại cây cao, to lá bầu tròn, hạt dùng xỏ xâu làm chuỗi để niệm Phật.

        Chính Đức Thích Ca Mâu Ni đã ngồi thiền dưới gốc cây Bồ đề nầy mà đắc Đạo.

                     Đứng trước Tổ đình dợn sắc lam,

                     Bồ Đề khác hẳn mọi cây phàm.

                                                (Thơ Chơn Tâm).

        2.- Bồ đề, theo giáo lý Phật, còn dùng để chỉ sự tỉnh thức, hay giác ngộ.

        Như: Chứng quả bồ đề, bồ đề tâm.

                     Mượn Bồ đề quày quả thế thôi,

                     Chẳng phải kệ với kinh năng đúc Phật.

                                                (Ngọc Hoàng Thượng Đế).

                     Quán tục răn lòng rời sắc giới,

                     Bồ đề vọng niệm nhập đài vân.

                                                (Thơ Bạch Nhạn).

BỒ ĐỀ DẠ 菩 提 夜

        Bồ Đề Dạ, Hán dịch từ Phạn ngữ Buddhaya, là một vị Bồ Tát do Đức Quán Thế Âm Bồ Tát hoá thân.

        Theo Kinh “Đại Bi Tâm Đà Ra Ni Xuất Tượng”, Tổ Văn Thê Đại Sư đem 84 câu của Chú Đại Bi hoạ ra thành những bức tượng: Hoặc hình Phật, hình Bồ Tát, hình các Thánh nhị thừa, hoặc hình Phạm Thiên Đế Thích, hoặc các hình Thần tướng Kim Cang...Những hình tượng đó đều có nhiều bộ dạng khác nhau, hoặc từ bi, hoặc Thánh dung, hoặc hung tợn, hoặc phàm tướng. Tất cả đều từ nơi Thánh trí, lòng đại bi của Đức Quán Thế Âm hoá hiện ra để cứu giúp chúng sanh.

        Câu Chú Đại Bi số 46 là tượng Bồ Đề Dạ Bồ Đề Dạ 菩 提 夜 菩 提 夜 (Buddhaya Buddhaya), tức là Quán Âm hiện tướng diện mạo từ bi, thân cận trẻ con giáo hoá lợi ích chúng sanh.

                     Bồ Đề Dạ dẫn hồn thượng tấn,

                     Cực Lạc Quan đẹp phận Tây Quy.

                                                (Kinh Tận Độ).

BỒ ĐOÀN 蒲 團

        Bồ: Cỏ bồ, lá già dùng để dệt chiếu, đương đệm, hay làm túi đựng đồ vậy. Đoàn: Hình tròn.

        Bồ đoàn là một tấm chiếu hình tròn được kết bằng cỏ bồ, dùng để các nhà sư ngồi thiền hay quỳ lạy, lễ bái.

        Âu Dương Chiêm có câu: Thảo tịch bồ đoàn bất tảo trần 草 席 蒲 團 不 掃 塵, nghĩa là chiếu cỏ bồ đoàn không quét bụi.

                     Bồ đoàn mạc hám liên huê thất,

                     Tác thế tâm ưu khởi đạo tông.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Bồ đoàn tưởng niệm tâm an lạc,

                     Chí ở bốn phương chẳng đổi dời.

                                                (Prasey Prakhet).

BỒ LIỄU 蒲 柳

        Bồ: Một thứ cỏ có thân mềm yếu, nên người xưa thường ví với người con gái. Liễu: Cây dương liễu.

        Bồ liễu là một loại cây dương mọc bên bờ nước, còn có tên thuỷ dương. Thân cây bồ liễu có thể chất mềm yếu, nên người ta thường ví với thân người phụ nữ yếu đuối.

        Cố Quân Thục đời Tấn, cùng tuổi với vua Giản Văn Đế mà đầu bạc sớm, vua hỏi thì nói: Bồ liễu chi tư vọng thu nhi lạc 蒲 柳 之 姿 望 秋 而 落, tức là cái tư chất loài bồ liễu, hễ thấy mùa thu là rụng.

        Xem: Liễu bồ.

                     Thương người nặng nghĩa hơn phiền,

                     Đem thân bồ liễu làm thuyền độ phu.

                                                (Thất Nương Giang Bút).

                     Thiếp hổ thân bồ liễu,

                     Ngày dựa cửa trâm anh.

                                                (Tuý Sơn Vân Mộng).

                     Cô thân chịu phải xa ngàn dặm,

                     Bồ liễu giữ an phận mối giềng.

                                                (Thơ Chánh Đức).

BỒ TÁT 菩 薩

        Bồ Tát, do chữ Phạn bodhi sattva, phiên âm Hán là Bồ Đề Tát Đoá, dịch nghĩa là giác hữu tình, hay giác ngộ chúng sinh.

        Bồ Tát là bậc đã giác ngộ, nhưng không an hưởng Niết Bàn, mà lo cứu độ chúng sanh tự giác giác tha, tự độ độ tha.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn có dạy: Các con coi bậc Chí Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ rỗi nhơn sanh là thế nào, phải xưng là một vị Tiên Ông và Bồ Tát là hai phẩm chót của Tiên, Phật.

                     Ánh Xá lợi sáng ngời Cực Lạc,

                     Hiển kim thân Bồ Tát hoá duyên.

                                                (Xưng Tụng Công Đức).

                     Công cả các con là đáng nhứt,

                     Vì con Bồ Tát hết cư trần.

                                                (Đạo Sử).

BỒ TIÊN 蒲 鞭

        Bồ: Tên một thứ cỏ mềm. Tiên: Cây roi.

        Bồ tiên là cây roi bằng cỏ bồ. Ý nói dùng roi bồ làm hinh phạt để dân biết nhục mà thôi.

        Xem: Bồ tiên thị nhục.

                     Quơi bồ tiên mượn quyền thị nhục,

                     Cải tai ương ra phúc vĩnh tồn.

                                                (Bát Nương Giáng Bút).

BỒ TIÊN THỊ NHỤC

蒲 鞭 示 辱

        Bồ tiên: Cây roi được kết bằng cỏ bồ. Thị nhục: Nêu lên để biết nhục.

        Bồ tiên thị nhục ý nói Lưu Khoan phạt dân bằng roi bồ để biết nhục mà sửa cải lỗi lầm.

        Theo Hán thư: Lưu Khoan là vị thái thú ở Nam Dương, tánh khoan dung, độ lượng và lại hay thương dân nghèo khổ. Mỗi khi trong hạt có người phạm lỗi, ông chỉ dùng roi bồ mà đánh, ý không muốn dân chịu hình phạt đau đớn, cốt để người chịu đòn nhục mà ăn năn chừa lỗi.

        Nên sách có câu: “Hán Lưu Khoan trách dân bồ tiên thị nhục” 漢 劉 寬 責 民 蒲 鞭 示 辱, nghĩa là ông Lưu Khoan nhà Hán trị dân chỉ lấy roi bồ đánh để làm nhục cho sửa lỗi mà thôi.

                     Hớn Lưu Khoan trách dân bồ tiên thị nhục,

                     Hạng Trọng Sơn khiết kỷ ẩm mã đầu tiền.

                                                (Thanh Ngôn Hiệp Tuyển).

BỔ

        1.- Bổ là lao mạnh toàn thân, đập mạnh vào vật gì.

        Như: Sóng bổ vào gành đá, thằng bé nhảy bổ vào người, máy bay nhào lên bổ xuống.

                     Lượn thảm bổ gành tình ột ạt,

                     Gió sầu xô đảnh ái tơi bời.

                                                (Thơ Nặc Danh).

        2.- Bổ 補 là bù bào chỗ thiếu.

        Như: Uống thuốc bổ gan, bồi bổ dinh dưỡng, ăn uống thêm chất bổ, báo bổ.

                  Nguyện lấy sức đền ơn cương thổ,

                  Dốc lòng lo báo bổ ơn nhà.

                                                (Kinh Cúng Chiến Sĩ).

        3.- Bổ 補 là dùng một người để sung vào chức vị hay phẩm tước nào đó.

        Như: Bổ chức sắc về các huyện, thi đậu được bổ làm giáo học, bổ nhiệm.

                     Bao Chức sắc phục tùng Thánh lịnh,

                     Bổ địa phương thức tỉnh nhơn sanh.

                                                (Quang Cảnh Toà Thánh).

BỔ BÁO 補 報

        Bổ: Giúp đỡ. Báo: Đáp lại.

        Bổ báo là báo đáp lại lời cầu xin.

        Bổ báo, cũng như chữ “Báo bổ 報 補”, còn có nghĩa là đền đáp công ơn.

        Như: Phận làm con phải lo bổ báo công ơn cha mẹ.

        Xem: Báo bổ.

                     Lòng sở vọng gắn ghi đảo cáo,

                     Nhờ Ơn Trên bổ báo phước lành.

                                                (Kinh Cúng Tứ Thời).

                     Ngài Hộ Pháp say ngây bổ báo,

                     Hiệp Thiên Đài rốt ráo chu toàn.

                                                (Tìm Hiểu Sự Nghiệp).

BỔ ÍCH 補 益

        Bổ: Bù vào chỗ thiếu. Ích: Thêm nhiều lên, lợi ích.

        Bổ ích là bù thêm, hoặc có lợi ích, có tác dụng tốt.

        Thánh giáo Thầy có câu: Thầy ước sao các con biết tự lập thì Thầy mới vui lòng, chớ các con nhập môn cho đông, lãnh Thiên phong cho nhiều mà không đủ tư cách thì các con phải tự hỏi mình coi có bổ ích vào đâu chăng?

Nhiều Giáo Hữu không biết một nét chi về việc đạo, chư tín đồ không trông học hỏi đến đặng, thì Chức sắc còn có bổ ích chi.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BỔ KHUYẾT 補 缺

        Bổ: Bù vào chỗ thiếu. Khuyết: Thiếu, chỗ thiếu.

        Bổ khuyết là thêm vào chỗ thiếu sót.

        Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung trong Thánh Ngôn Sưu Tập có dạy: Em phân cho đại tỷ biết từ mấy chục năm nay, những người dìu Đạo vẫn sơ sót về phần dạy Đạo, nhưng nay cần phải bổ khuyết.

Bần đạo khuyên Thượng Sanh nên mềm dẽo để việc làm sẽ trả lời và nhơn việc làm sẽ thấy chỗ nào nên bổ khuyết.

                                                (Thánh Giáo Hộ Pháp).

BỔ NHIỆM 補 任

        Bổ: Điền vào chức quan. Nhiệm: Gánh vác.

        Bổ nhiệm là bổ dụng quan lại, tức cử giữ một chức vụ trong bộ máy của nhà nước.

        Trong đạo Cao Đài, các chức sắc được bổ nhiệm đi hành Đạo ở các cơ quan hay ở địa phương.

          Hội Thánh dâng danh sách các Chơn Nhơn cầu thăng lên Hiền Nhơn, Đức Hộ Pháp giáng cơ dạy: Bần đạo đã nói rồi, tuy nhiên sẽ có hai vị được thăng thưởng, đó là Chơn Nhơn Trung và Phú, nhưng chỉ được bổ nhiệm chức vụ Cố Vấn cho Hiệp Thiên Đài mà thôi. Sau có cơ hội, Bần đạo sẽ chỉ thêm.

                  Khâm Thành bổ nhiệm đúng vai tuồng,

                  Ngọc Nhượn tài lành đủ đảm đương.

                                                (Thơ Thượng Sanh).

BỘ

        1.- Bộ là hình dáng hiện ra bên ngoài qua cử chỉ, cách đi đứng, dáng vẻ.

        Như: Trông bộ rất quen, làm ra bộ chưa hiểu, chẳng ra gì lại hay làm bộ.

        Thánh giáo Bát Nương Diêu Trì Cung trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn: Năm mới, chùa mới, vạn sự đều mới, vậy em đến cầu chúc cho quý anh quý chị đặng những điều mới mẻ may mắn. Tân Xuân đây, quý anh quý chị coi bộ ráng nông trang hành đạo.

                     Ghét có người làm bộ giả đò,

                     Ra giễu cợt làm trò thương hết ghét.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

                     Khi chửa nghén tình thương đeo đắng,

                     Nhớ hình đi tướng đứng bộ ngồi.

                                                (Phương Tu Đại Đạo).

        2.- Bộ 部 là thống thuộc, khi dùng để chỉ những vật gì cùng một hạng mà phải theo với nhau. Như: Bộ bài, bộ ván, bộ thiết giáp, bộ Thiên phục.

        Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có đoạn: Chung quanh các con, dầu xa dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con. Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con.

con phải may riêng bộ áo lễ tay rộng, cổ trịch như áo đạo, nhưng dải gài chín mối, màu xanh da trời.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

        3.- Bộ 部 dùng để chỉ một toà có các viên chức coi riêng về một việc gì. Như: Bộ hình, bộ lễ, bộ lôi công, bộ nhạc, bộ pháp chánh.

        Thuyết Đạo Thượng Sanh có câu: Nghĩ đến công cuộc kiến tạo mà Bộ Nhạc Trung Ương phải tự túc để hoàn thành, tôi ý thức đến nỗi khó khăn cũng như sự nổ lực của toàn thể Chức sắc Bộ Nhạc đã đồng tâm nhứt trí mới đi đến thành công mỹ mãn.

                     Trừ quái khí roi thần chớp nhoáng,

                     Bộ Lôi Công giải tán trược quang.

                                                (Kinh Tận Độ).

                     Côn trùng còn đoạt được nhơn duyên,

                     Ngũ bộ Lôi công định sát liền.

                                                (Thiên Thai Kiến Diện).

        4.- Bộ 簿 là sổ sách. Như: Bộ đinh, bộ điền, sổ bộ.

        Thánh giáo Thầy có câu: Giáo Sư là người để dạy dỗ chư môn đệ trong đường Đạo với đường Đời. Buộc chúng nó lo lắng cho các con như anh ruột lo cho em. Chúng nó cầm sổ bộ của cả tín đồ. Chúng nó phải chăm nom về sự tang, hôn của mỗi đứa.

Còn sổ bộ của Tín Đồ phải làm cho hoàn toàn. Các nơi phong thêm Trị Sự và Chức Việc chư Hương Đạo đặng tiện lo cho chư Môn Đệ của Thầy.

                                                (Đạo Sử).

        5.- Bộ 哺 là bú.

        Như: Tam niên nhũ bộ (ba năm bú mớm).

        Thành ngữ Hán Việt có câu: Thập nguyệt hoài thai tam niên nhũ bộ 十 月 懷 胎, 三 年 乳 哺, nghĩa là mười tháng mang thai ba năm bú mớm, chỉ công lao của bà mẹ.

                     Cù lao chín chữ ơn chưa trả,

                     Nhũ bộ ba năm nghĩa chửa bồi.

                                                (Thơ Thiên Vân).

        6.- Bộ 步 là bước chân đi, coi là phương thức đi lại.

        Như: Đi bộ, lính bộ, đường bộ, bộ hành, bộ binh.

                     Đức tánh tàng thơ vô vị bần,

                     Lộ hành an bộ Đạo tùy thân.

                                                (Thánh Thi Hiệp Tuyển).

                     Xuyên dương trăm bộ đấng nên tài,

                     Vùi lấp bấy chầy chí khí trai.

                                                (Đạo Sử).

BỘ CÔNG DI LẠC

        Bộ công 部 工: Sách ghi chép công quả. Di Lạc (Di Lặc) 彌 勒: Một vị Phật làm chủ và khai mở hội Long Hoa.

        Bộ công Di Lạc là sách ghi chép công quả của mỗi người ở thế gian trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, do Đức Di Lạc Vương Phật làm chủ khảo và căn cứ công quả đó để định ngôi thứ nơi cõi thiêng liêng cho mỗi người.

Vào Lôi Âm, kiến A Di,

Bộ Công Di Lạc Tam Kỳ độ sanh.

                                                (Kinh Tận Độ).

BỘ DẠNG

        Bộ: Dáng cách, dáng vẻ. Dạng: Hình thể hiện ra khác nhau của một vật hay sự vật.

        Bộ dạng là cử chỉ và dáng người, tức dáng vẻ bề ngoài. Như: Bộ dạng cao lớn, bộ dạng hung dữ.

Anh thời bộ dạng xấu xa,

Tôi thì như một đoá hoa vẹn mười.

                                                (Thơ Hộ Pháp).

BỘ HẠ 部 下

        Bộ: Thống suất. Hạ: Dưới.

        Bộ hạ là đầy tớ, quân lính hoặc viên chức thuộc về một chức quan nào cai quản.

        Thuyết Đạo Hộ Pháp có câu: Bần Đạo chỉ cho ngó thấy, nếu một tướng cướp muốn làm chúa thiên hạ, thâu thiên hạ trong tay, phải lấy tình đức đối đãi với kẻ bộ hạ mới thâu cả xương máu của họ đặng tô điểm địa vị của nó.

Cái quyền hành lớn lao ấy do Thầy ban cho nó, nên đặng quyền cám dỗ các con, xúi biểu các con, giành giựt các con mà làm tay chơn bộ hạ trong vòng tôi tớ nó.

                                                (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

BỘ NHẠC

        Bộ 部: Tiếng dùng để chỉ một ngành chuyên môn của Đạo Cao Đài. Nhạc 樂: Âm nhạc.

        Bộ nhạc là một cơ quan chuyên môn của Đạo Cao Đài, có nhiệm vụ tổ chức các ban nhạc cúng tế và đào tạo các nhạc sĩ của Đạo.

        Bộ nhạc được thành lập theo Thánh Lịnh số 25 của Đức Hộ Pháp ký ngày 29/3/Tân Mão (Dl 4-5-1951), có 9 phẩm như sau:

        1/ Nhạc Sĩ. 2/ Bếp Nhạc. 3/ Cai Nhạc. 4/ Đội Nhạc. 5/ Quản Nhạc. 6/ Lãnh Nhạc. 7/ Đề Nhạc. 8/ Đốc Nhạc. 9/ Nhạc Sư.

Nhạc Sĩ                       đối phẩm                 Chánh Trị Sự

Bếp Nhạc, Cai Nhạc                                   Lễ Sanh.

Đội Nhạc, Quản Nhạc, Lãnh Nhạc             Giáo Hữu

Đề Nhạc, Đốc Nhạc, Nhạc Sư                    Giáo Sư.

        Nhạc Sư khi đủ 5 năm công nghiệp thì có thể thăng lên Phối Sư, hay Tiếp Lễ Nhạc Quân, nếu phẩm nầy khuyết.

        Đại phục: Chức sắc Bộ Nhạc là áo cụt khỏi trôn, màu đỏ, quần trắng có viền kim tuyến nơi cổ tay, ngay ngực có mang ba màu đạo (Tam Sắc Đạo), chính giữa thêu hình cây đờn tỳ bà. Dưới cây đờn thì để chức tước của vị chức sắc ấy. Từ Nhạc Sĩ trở lên tới Quản Nhạc viền kim tuyến bạc, từ Đề Nhạc đổ lên viền kim tuyến vàng. Đầu đội Hỗn Nguơn Mạo, giống hình Ngưỡng Thiên Mạo của Giáo Hữu Phái Ngọc, nhưng thấp hơn một chút, cao khoảng 12 cm, giữa mão ngay trước trán có tam Sắc Đạo, gác xéo một cây đờn tỳ bà.

        Tiểu phục: Từ Nhạc Sư trở xuống Nhạc Sĩ đều mặc áo tràng trắng, có thắt ngang lưng một sợi dây nịt trắng, đầu đội Bán Nguyệt Mạo như cái Ca lô trắng (Giống Mão Đầu Phòng Văn), ngay giữa trán có huy hiệu hình chữ nhựt bằng kim khí, trên có Tam Sắc Đạo và cây đờn tỳ bà gác xéo.

Học Đường của Bộ Nhạc đã hoàn thành, đó là một công quả đáng ghi của Chức sắc Bộ Nhạc.

                                                (Thuyết Đạo Thượng Sanh).


Phần 1: https://vietbao.com/a265990/tu-dien-cao-dai-mot-cong-trinh-vua-van-hoc-vua-ton-giao
Phần 2: https://vietbao.com/a265991/tu-dien-cao-dai-phan-2


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Độc tài, độc đảng là bà đẻ của tham nhũng vì hệ thống cai trị dựa trên sự bao che và tuỳ tiện để bảo vệ đặc lợi cho đảng cầm quyền.
Trong khi Quốc hội thảo luận cho có lệ thành phần tân Chính phủ do Nguyễn Tấn Dũng đề nghị để hòan tất thủ tục trao quyền lãnh đạo Nhà nước
Ông Patrick Creamer , Giám Đốc Văn Phòng Liên Lạc của Dân Biểu Chris Smith (R – NJ) cho biết Ủy Ban Ngoại Giao của Hạ Viện đã chấp thuận dự luật cải thiện
...cổ phần hoá rất chậm hệ thống doanh nghiệp nhà nước trong khi lại lập thêm tổng công ty quốc doanh...
Tôi là một dân oan Việt Nam, là một người lương thiện đã chịu bao thủ đoạn tàn bạo của những đảng viên CSVN tha hoá biến chất
Các Công Tố Viên sẽ không yêu cầu một án tử hình hung phạm Terapon Adhahn nếu y bị kết án sát hại em Zina Linnik, 12 tuổi tại Tacoma.
Tình cờ đọc số báo Việt Weekly điện tử đề ngày 26 tháng 7 năm 2007, thấy anh viết một bài trình bầy quan điểm của anh về việc tham dự bữa tiệc
Thay mặt Hiệp hội thông công Tin lành các dân tộc Việt nam,chúng tôi xin trân trọng gữi thông cáo báo chí này đến cùng quí vị
Trong kinh Pháp Hoa, có phẩm “Dược thảo dụ” trong đó đức Phật so sánh căn cơ nhận thức và thấu hiểu Phật pháp của chúng sanh như cây cỏ trong rừng
LƯ THỊ THU DUYÊN, gia đình diện chính sách, có công với chế độ, hiện tôi đang ngụ tại 77/13B Trần Bình Trọng, Phường 1, Quận Gò Vấp, Thành phố Sài Gòn
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.