Hôm nay,  

Trường Thi Lục Bát “Kinh Bô Thường” của Võ Thạnh Văn

22/03/201715:41:00(Xem: 4944)
Trường Thi Lục Bát “Kinh Bô Thường” của Võ Thạnh Văn
 
Vương Trùng Dương
 

Trường thi lục bát “Kinh Vô Thường” của Phù Hư Dật Sĩ Võ Thạnh Văn với 2500 đoạn, mỗi đoạn 4 câu, gồm hai quyển, dày 1560 trang, nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành năm 2016.

Quyển Thượng dày 884 trang, có 1250 đoạn cùng Lời Tựa của Cung Tích Biền, Lời Bạt của Hà Thượng Nhân, Duy Văn, Nhị Thu, Ngô Đức Diễm, Lâm Vân, Thinh Quang, Nguyễn Quang, Cao Phương Kỷ. Lời Bình của Ngô Nguyên Diễm. Cảm Tác qua các bài thơ sau khi đọc “Kinh Vô Thường” với Hà Thượng Nhân, Hải Phương, Cung Diễm, Nguyễn Đức Đệ, Thiên Hà, Cao Mỵ Nhân và các bài viết của Võ Công Liêm, Ngô Xuân Hậu, Cao Mỵ Nhân. Ngoài ra còn có những dòng thơ cảm tác của các thi hữu.

 

 blank

 

Quyển Hạ dày 676 trang, ngoài phần Cảm Tác & Cảm Tưởng viết thêm của Hà Thượng Nhân, Cao Mỵ Nhân, Cung Diễm, có Thanh Thanh và Trình Ngọc Lan. Lời Bạt của Trần Tuấn Kiệt, Nguyễn Liệu, Diên Nghị, Độ Ngạn, Nguyễn Đăng Trúc.

Trong trường thi lục bát nầy tác giả chia thành 10 chương Cát Bụi, mỗi chương có 250 đoạn. Đây là trường thi dài và dày nhất trong thi ca Việt Nam.

Theo lời tác giả: “Kinh Vô Thường là một lời kêu thương bi thống của một kiếp nhân sinh bi lụy trong cõi trần ai. Đó là lời ca cùng tột bi tráng chứa đựng ngậm nùi chất ngất đau thương của những tâm hồn vươn lên từ nỗi bi thiết thường hằng”.
 

Về hình thức, trình bày rất trang nhã, thoáng. Và, ngoài sở trường của nhà văn, Cung Tích Biền đảm trách công việc nầy, tôi nói đùa với anh “lấn chiếm nghề của tôi” vì tôi không ngờ khi giở từng trang được layout trong tác phẩm dày cộm như vậy.

Quê hương của núi Ấn sông Trà với những nhà thơ nỗi tiếng như Bích Kê, Tế Hanh, Nguyễn Vỹ… đã góp mặt trên thi đàn Việt Nam. Điều rất thú vị qua Lời Tựa của Cung Tích Biền cho biết Võ Thạnh Văn xuất thân trên mảnh đất nầy và “Võ Thạnh Văn là một Ki-tô-hữu, được hun đúc trong/ và thừa hưởng nên giáo dục nhị nguyên của kinh điển Ki-tô-giáo. Lại một người khá thông tuệ Phật giáo, như từ Cửa Phật. Tĩnh lại một thiền giả…”, “Anh được cái mầm ân sủng của miền kỳ vĩ núi Ấn sông Trà, thừa hưởng từ Vô, lẫn Hữu hình ấy, từ cái ‘đục-trong rạch ròi’. Mang cái trong vắt tâm linh trí tuệ đi cùng cái khí hậu nhân gian đục ngầu đương nhiên phải đục, bản thể của tục lụy. Tất cả, từ ngọn cỏ Quê Nhà đến hình tượng Thần Tự Do nơi xứ sở thứ hai anh đang tạm dung / cư ngụ, đã tụ gom. Hình thành một thi sĩ Võ Thạnh Văn hôm nay”.
 

Đoạn 001 khởi đầu:

phận ta hạt bụi mê lầm

trong cơn say tĩnh gọi thầm giai nhân

lạc nhau cát bụi bần thần

gác khuya trở giấc gieo vần ngả nghiêng

Đoạn 2500 kết thúc:

thiên thu một nắm tro đời

vần - xoay - dịch - chuyển - đổi - dời - hoại - sinh

sắc - không - chân - giả - bóng - hình

cát: ân thiên hựu - bụi: tình khởi nguyên”.
 

Tứ bốn câu khởi đầu đến bốn câu kết thúc cũng càm nhận được ý nghĩa mười ngàn câu với cuộc sống “vô thường” trong cõi đời.

Trong trường thi lục bát nầy tác giả chia thành 10 chương, mỗi chương có 250 đoạn.

Trong Bát Nhã Tâm Kinh của Phật Giáo có câu: “Sắc bất dị không, không bất dị sắc” nói lên ý nghĩa sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Chữ “Sắc” trong đạo Phật dùng để chỉ vật chất và những gì có hình tướng màu sắc. Chữ “Không” trong đạo Phật là “Chơn Không Diệu Hữu”. Như vậy, sắc tức thị không là nói đến thật tướng của vạn pháp và đấy chính là vô tướng, cái tướng không của vạn pháp. Nó vô thường, tất cả cũng do nhân duyên tạm bợ nương gá nhau mà thành. Hết duyên thì tan rã rồi trở về với cát bụi hư vô. Không có gì là tự thân riêng biệt của chính nó cả.
 

Đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết pháp tại chùa Điều Ngự ngày 20 tháng 6 năm 2016, Ngài giảng: “Tính không là gì? Sắc tức thị không; không tức thị sắc. Nếu chúng ta suy xét và phân tích kỹ càng về sắc, chúng ta sẽ không thể thấy bất cứ thứ gì tồn tại một cách cố hữu cả. Mọi thứ đều tồn tại trong mối liên hệ với sự vật khác. Sắc tướng và tính không đều có sự tương tác lẫn nhau”.

Là một tín hữu Ki-tô-giáo mà tác giả Võ Thạnh Văn đã “ngộ” được triết lý cao siêu của Phật Giáo để trang trải qua mười nghìn câu thơ lục bát quả là một công trình sáng tác tuyệt vời. Chẳng hạn “quay đầu đã ngộ bến xưa, phá thuyền chợt thấy sóng lưa thưa dồn” (câu 1501-1502). Hai chữ lưa thưa để chỉ mái tóc, nhà cửa… nhưng lại dùng cho cho sóng nước lúc hiền hòa. Nhưng khi nổi cơn thịnh nộ thì “nửa cơn hồng thủy ập về, phận thuyền luân lạc – phận bèo giạt trôi” (câu 2257-2258). Con người cũng vậy, lúc hiền hòa thì vỗ về, lúc thịnh nộ thì gây tai họa! Vì vậy, trong cõi trần ai nầy chỉ là cõi tạm, sống với cái tình, cái tâm để rồi khi trở thành cát bụi “mai sau gặp cõi vĩnh hằng, mời nhau uống chén trà sen ướp quỳnh” (câu 2417-2418).
 

Trước khi tác giả in thành tác phẩm, trường thi “Kinh Vô Thường” đã gởi đến quý văn hữu để đóng góp cảm nhận. Xin trích:

Ngô Đức Diễm với lời kết: “Rốt cuộc, tất cả là hư không. Chỉ có tình là vĩnh cửu, là thường hằng. Nhưng tình lại chính là Thơ, nên Thơ phải viết bằng chữ hoa. Thơ là thường hằng vĩnh cửu, và đó chính là nụ hoa tô điểm cuộc đời. Thơ là Kinh vậy”.

Theo Cao Phương Kỷ: “Đọc Kinh Vô Thường hơn môt vạn câu thơ, vừa ngậm ngùi, vừa réo rắt, vừa hoan lạc, trong một kiếp nhân sinh đa lụy của thân phận làm người… Khởi đi từ kiếp sống “cát bụi vô thường” để vượt lên cõi “thường hằng bất biến”, thi nhân đã rút ra được những dòng triết lý ứng dụng tực tiễn. Khởi từ cuộc đời “hư vô tương đối” ở cõi trần để tìm về cõi “hư vô tuyệt đối” (Absolute Nothingness) tức “Diệu Hữu Chân Không”, thi nhân dường như đã gần đạt đến cùng đích của kiếp phù sinh tạm bợ nầy”.
 

“Chân không diệu hữu” hay “diệu hữu chân không” mang triết lý của Từ Đạo Hạnh (1072-1116) vị thiền sư người Việt Nam thời nhà Lý, dân gian gọi là đức thánh Láng. Bài thơ Hữu không của Ngài:

“Tạc hữu trần sa hữu,

Vi không nhất thiết không.

Hữu, không như thuỷ nguyệt,

Vật trước hữu không không”.

Dịch nghĩa

(Bảo là có, thì nhỏ nhoi như hạt bụi cũng có

Bảo là không, thì tất cả trên thế gian đều không

Có và không như ánh trăng dưới nước

Đừng có bám hẳn vào cái có cũng đừng cho cái không là không).
 

Theo Trần Tuấn Kiệt: “Thế là trong cát bụi, nhà thơ không chỉ có suy diễn trầm tư về sự vô thường mà còn mở ra một chân trời phóng khoáng lãng mạn và đầy chân tính với một hình bóng giai nhân nào đó hoặc là ảo ảnh từ cát bụi mà ra, hoặc là huyền nhiệm vô song đối với cái hiện sinh đầy hư ảo của cuộc đời”.

Với Diên Nghị nhận xét: “Dòng thơ lục bát thanh tao, dịu dàng, uyển chuyển, vốn bắt nguồn từ ca dao dân tộc, một hình thái văn chương Việt Nam đặc thù, tồn tại lâu dài và dự phóng phồn phú mai sau, như là nền tảng căn bản của sangg1 tạo thi ca, kết âm từ và điệu. Mười ngàn câu lục bát của Võ Thạnh Văn trong Kinh Vô Thường đã vận dụng, diễn đạt, phóng chiếu lấp lánh hào quang lên cõi tịch lặng uyên nguyên của Đức Phật, khai ngộ chính mình và đến nơi an vị Đạo, dưới gốc bồ đề”.
 

Vì sao tác giả không để “Thơ Vô Thường” mà “Kinh Vô Thường” trong Lời Bạt của Nguyễn Đăng Trúc cho rằng: “Khi nói đến Kinh và Thi Ca, văn hóa vùng Đông Nam Á một mặt tôn vinh Kinh là Nguồn của Đạo làm người, mặt khác gọi Thi Ca là Nguồn của các Kinh. “Hưng ư Thi”: Thi ca là thần lực đem lại sức sống và lương tực nuôi dưỡng, nhân tính, là cảm hứng cho lời nói chân thật của con người”.

Tóm lại, với trường thi lục bát “Kinh Bô Thường” của Võ Thạnh Văn, với chủ ý của tác giả chia thành 10 chương, mỗi chương với 250 đoạn, mỗi đoạn có 4 câu. Với mười nghìn câu thơ lục bát, không phải là cốt chuyện mà khi đọc mỗi đoạn cũng cảm nhận được ý nghĩa của nó gói ghém về nhân sinh quan trong cuộc đời.
 

Mượn lời kết của Chu Vương Miện khi giới thiệu về trường thi nầy đã viết: “Ôi! Phù Hư Dật Sĩ Võ Thạnh Văn, người bạn trẻ vong niên của tôi, nguyên quán xã Tịnh Minh, tức “Ba Gia" Sơn Tịnh, Quảng Ngãi. Giữa cuộc đời lưu lạc tha phương,tạm dung xứ người, mà thi nhân đã trứ tác được những bộ trường thiên thi như Kinh Vô Thường (và Kinh Vô Tự, Đoạn Trường Hư Thanh), thuộc loại những thi phẩm đồ sộ để đời, đáng ngợi ca, đáng biểu dương, đáng bái phục. Thiết nghĩ, những tác phẩm nầy không còn riêng của tác giả, mà là của chung, đáng trân quý và giữ gìn”.

Little Saigon, March 2017

Vương Trùng Dương

  



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.