Hôm nay,  

GS Đàm Quang Hưng, Một Tấm Gương Cho Tôi

16/03/201700:07:00(Xem: 8692)
GS Đàm Quang Hưng, Một Tấm Gương Cho Tôi
 
Nguyễn Văn Sâm

 blank

 
Ai trong đời cũng có nhiều Thầy học. Có những vị Thầy nhiều ảnh hưởng lên cuộc đời mình vì mình thích, phục vài điều gì đó trong lời giảng khi theo học nhưng sau nầy xa cách trong đời do hoàn cảnh; có những vị Thầy trong khi học mình không thủ đắc được nhiều về cách sống ngoài những kiến thức giáo khoa nhưng sau nầy lại là bạn vong niên vì có hoàn cảnh gần gũi. Đối với tôi, Thầy Nguyễn Văn Phú, Thầy Bạch Văn Ngà, Thầy Roch Cường… là những trường hợp cụ thể thứ nhứt. Thầy Đàm Quang Hưng là trường hợp cụ thể thứ hai.  Còn biết bao nhiêu vị khác nữa trong thời gian theo học Trung học và Đại học nhưngkhông thế nào kể ra cho hết.
 

Thầy Hưng dạy lớp Toán Lý Hóa luyện thi Tú Tài 1, năm đó 1957-58, Thầy dạy tương đối nổi tiếng, lớp đông đảo học sinh. Tôi đang theo học lớp Đệ Nhị B ở trường Văn Lang của Thầy Ngô Duy Cầu ở trường Cô Bắc, dư thời giờ bèn đi học thêm các môn chánh cho kỳ thi sắp tới.

Thầy Hưng giảng bài trầm trầm, mắt ngó lên bảng, chăm chú như thầm xét lại những gì Thầy đã viết hơn là nhìn vào đám học trò. Lớp luyện thi lúc đó được giảng về kiến thức làm sao giải được bài toán Hình học không gian nầy, bài toán Đại số kia, bài toán Lượng giác nọ…. trong chương trình. Chuyện ngoài lớp học, chuyện đời sống bên ngoài và cách ăn ở thế nào để làm người xứng đáng tuyệt đối không có. Ấn tượng lúc ấy của tôi về Thầy Hưng phải nhận là không sâu đậm do nhiều lý do, trong đó có việc tôi theo học lớp luyện thi của Thầy trong thời gian thiệt ngắn vì gia đình không thể đóng học phí cho anh em tôi học cùng một lúc hai trường.
 

Ba năm sau Thầy trò thường gặp nhau khi cả hai cùng là tác giả những quyển sách giải Toán Lý Hóa… do nhà xuất bản Sống Mới của các ông Võ Văn Khoái  và Nguyễn Tấn Long ở đường Phạm Ngũ Lão, Sàigòn mà sách của thầy Hưng là những quyển bán chạy nhứt nhì, thường được tái bản nhiều lần với số lượng in khá lớn.

Tôi lúc nào cũng thưa Thầy khi nói chuyện. Thầy Hưng bao giờ cũng thưa ông Sâm. Tôi kính trọng và lễ phép với Thầy có lý do, mình từng là học trò của Thầy. Thầy Hưng lễ phép với học trò vì đó là bản tánh và là con người thật của Thầy. Cuộc giao tình dừng lại ở những lần gặp nhau như vậy trong vài ba năm trời.
 

Rồi cuộc đời mỗi người mỗi hướng do cuộc sống và hoàn cảnh. Thầy vào Thủ Đức, ra trường, về dạy trường Võ Bị Đà Lạt rồi về mở trường Trung học tư thục Nhân Chủ của riêng Thầy. Tôi chuyển sự say mê của mình về mặt văn chương Việt Nam và dính khắn vào đó. Hai Thầy trò không gặp nhau từ dạo giửa thập niên 60..
 

Chúng tôi gặp lại nhau lúc Thầy Hưng mới dọn nhà đến Houston sau một thời gian ở nơi khác, năm đó hình như là 1981. Và chúng tôi thân nhau. Tôi nói chuyện vẫn thưa Thầy và Thầy Hưng luôn luôn dùng chữ ông Sâm để nói chuyện với người học trò ngày trước. Chúng tôi bàn đủ thứ chuyện cũ mới, giáo dục, cuộc sống ở đất nước mình định cư... Và gặp nhau nhiều hơn ở những canh mà chược mà tôi mới học sau mấy năm đến nước Mỹ, thường làm Thầy cúng đem tiền nạp cho thiên hạ và Thầy Hưng thường khuyên tôi đừng nên chơi trò chơi nầy mà tôi không có kinh nghiệm…
 

Tôi thích đến nhà Thầy tham dự vào môn mới học nầy cũng như  thăm viếng chuyện trò từ căn nhà nhỏ hẹp bằng gỗ ở trong thành phố Houston, vùng cuối đường Westminster, tới căn nhà khang trang hơn ở khu Bellaire, ngoài vòng đay 610, đến căn nhà sau cùng trên khu Bellaire, trong vòng đay. Thăm viếng, làm Thầy cúng và nhứt là những kỳ hội  của Hội Cựu Giáo Chức vùng Houston kết được tình thân giửa hai Thầy trò chênh lệch nhau độ chừng mười tuổi, mà tôi cho là cái duyên rất đáng quý.
 

Luôn luôn tôi học được ở Thầy tính điềm đạm, nhẹ nhàng, lễ phép nhưng không khách sáo, nhứt là thái độ dễ chịu của Thầy trong việc chi tiêu và chịu khó sửa soạn dọn dẹp cho những buổi hội họp rất bổ ích của những người trước đây ở trong ngành giáo dục. Nhờ những buổi họp hằng tháng của Hội Cựu Giáo Chức Houston nầy tôi gặp được vài vị Thầy cũ cũng như năm ba người bạn đồng nghiệp ngày trước. Rất vui về điều đó…

Ấy là những chuyện thuộc về cá nhân, về cách xử thế tiếp vật của Thầy mà tôi được biết.

Thưa Thầy Hưng, em thích và kính trọng Thầy về chuyện đó nhưng  em thương Thầy ở những công việc Thầy làm bất vụ lợi và chịu sống đủ, sống bình dị hơn là dùng thời giờ của mình để chạy theo kim tiền và những thị phi vô ích…
 

Thầy Hưng không lý thuyết với tôi về chuyện phải làm thế nào để giúp ích đời về mặt văn học, nhưng Thầy cặm cuội  dịch toàn bộ Liêu Trai Chí Dị,  một việc làm không có nhiều người làm được. Dịch Liêu Trai thì trước sau đã có nhiều, Yã Hạc và Trinh Nguyên trong tạp chí Bách Khoa với lời văn siêu thoát, lãng đãng, mơ hồ, người đọc chỉ cần ghé mắt vài dòng là bị cuốn hút.  Nhiều tác giả khác, danh tiếng hay không, thỉnh thoảng cũng ghé vô bộ truyện dễ tìm độc giả nầy để dịch, nhưng rồi người thì vài ba truyện, người dài hơi hơn thì năm ba chục. Nhưng tất cả đều dịch không trọn bộ.
 

Thầy Hưng cứ nhẩn nha dịch từ truyện đầu đến truyện cuối trong vòng 7 năm, kể cả những truyện cực ngắn, chẳng có chút xíu tính chất Liêu Trai nào mà độc giả thường tự hỏi tại sao Bồ Tùng Linh lại đem vào trong toàn tập.

Tôi không hỏi Thầy tại sao Thầy lại dịch toàn bộ vì đã biết chắc câu trả lời ‘muốn giới thiệu thiệt là đầy đủ để người đọc có cái nhìn ít sai lạc về Bồ tiên sinh và có thể tự giải thích tại sao ông ta lại viết những truyện ma quái.’

Tôi thích bản dịch của Thầy Hưng tuy không bay bướm bằng Yã Hạc Trinh Nguyên nhưng cũng nhẹ nhàng, nhẹ nhàng chứ khôngphải tầm thường như một bản dịch cũng gọi là khá đầy đủ hiện xuất bản ở trong nước.
 

Rồi Thầy tung ra bản dịch Kim Vân Kiều Truyện, quyển tiểu thuyết văn xuôi có tánh cách bình dân bằng những mô tả quá đáng của Thanh Tâm Tài Nhân, tác phẩm gợi hứng cho Nguyễn Du để tạo thành truyện Kiều sau nầy. Đọc Đoạn Trường Tân Thanh, thích, mộ Đoạn Trường Tân Thanh nhưng mấy ai đã được đọc nguyên truyện, dầu là từ bản dịch, của Thanh Tâm Tài Nhân! Đây cũng là việc làm của người chịu bỏ một phần cuộc sống của mình cho văn học, nhóm chữ mà tôi thường dùng để xưng tụng Thầy và Thầy bao giờ cũng điềm đạm từ chối rằng không dám nhận.
 

Khi Thầy thủ đắc được hai bản Nôm Đoạn Trường Tân Thanh viết tay quý giá của Tăng Hữu Ứng (1874), và Lâm Nọa Phu (1870) thì Thầy hăng hái  kêu tặng bản sao cho những ai quan tâm đến chữ Nôm và truyện Kiều để họ có tài liệu làm việc; khác với nhiều người ở trong cùng trường hợp, bo bo giữ riêng cho mình, nói rằng để sau nầy khi có thời giờ thì  làm việc… nhưng không biết bao giờ mới bắt tay vào.

Tôi cảm phục tinh thần chia xẻ đó của Thầy.
 

 Tính tình thân thiện và tinh thần hi sinh cho văn học của Thầy đã tạo nên sự thương mến của nhiều người, nhà thơ Vĩnh Liêm trong một email cho bè bạn nói rằng: ‘Sự ra đi của GS Đàm Quang Hưng là một mất mát lớn cho nên Văn Học VNHN!’  Nói như vậy vì thi sĩ Vĩnh Liêm đã thấy giá trị trong những việc làm đã qua và cũng hé thấy những công trình sắp tới của Thầy.

Nhưng tiếc thay, sự việc đã biến sang chiều hướng khác. Thầy ra đi sau một ca mỗ bình thường về tim…
 

Người thương tiếc Thầy quá nhiều.  Tôi xin mượn  vài dòng rất cảm động của người học trò chưa từng được học với Thầy là cô Nguyễn Vũ Trâm-Anh:

Ở tuổi 85, Thầy ra đi cũng đã gọi là thọ nhưng sao con vẫn thấy nuối tiếc. …tinh thần làm việc cẩn trọng, nghiêm ngặt, cầu thị sự chuẩn xác của một ông Thầy Toán học mà lại làm công việc sưu khảo Văn học…..

Hành vi con người ở đời có thể nói được bắt đầu từ một nhân duyên nào đó từ muôn trùng xưa trong không gian và thời gian. Thầy có nhân duyên tốt để thành môt bậc Thầy đáng ngưỡng mộ bằng những việc làm cặm cụi không ích lợi cho Thầy mà là cho nhân thế. Điều nầy chắn chắn rằng sẽ tạo cảm hứng và làm gương tốt cho nhiều thế hệ tiếp theo: Làm việc cho văn hóa, dân tộc, ‘vì đời không vì mình’.
 

Xin kết thúc bài nầy bằng câu chí tình và rất cảm động của cô Trâm-Anh, nói được lòng thương Thầy của tôi:

Bài viết này như một nén hương lòng của con gửi đến Thầy. Con sẽ nhớ mãi Thầy, một người Thầy tài giỏi, đức độ, nhân từ.

Nguyễn Văn Sâm  (Victorville, CA, March 14, 2017)

 

 



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.