Hôm nay,  

Tưởng niệm: về thăm Fort Chaffee sau 42 năm

13/03/201709:35:10(Xem: 9456)

Tưởng niệm: về thăm Fort Chaffee sau 42 năm
 

Nguyễn-Lâm Kim Oanh & Nguyễn Viết Kim
(bài viết & hình ảnh)
 

Thấm thoát người Việt tị nạn có mặt trên đất Hoa Kỳ đã gần 42 năm. Cứ mỗi năm gần tới khoảng thời gian Tháng Tư Đen là ký ức tự động nhớ lại những diễn tiến cuối cùng ở quê nhà. Thêm vào đó, chúng tôi vừa được dịp về thăm lại trại tị nạn mà gia đình đã định cư khi mới bước chân lên đất Mỹ làm sự tưởng nhớ càng gần gũi hơn. Khoảng thời gian này, cách đây 42 năm (1975), đánh dấu những ngày tháng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hoà. Những trận đánh bắt đầu tại Ban Mê Thuật thuộc vùng 2 chiến thuật (Mar 10, 1975), đưa đến việc triệt thoái quân đoàn hai. Tại vùng địa đầu giới tuyến, Huế và Đà Nẵng thuộc vùng 1 chiến thuật, phải di tản vào các ngày cuối tháng 3 (25/3, 28/3). Xuân Lộc bỏ ngỏ ngày 20 tháng 4. Tại Sài gòn, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức ngày 21 tháng 4, phó tổng thống Trần Văn Hương thay thế, và vào ngày 28 nhường chức vụ tổng thống cho đại tướng Dương Văn Minh sau một phiên họp khẩn cấp tại Quốc Hội với sự chấp thuận của Hạ Viện và Thượng Viện (một số các dân biểu và nghị sĩ còn ở Saigon). Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, thì lịch sử sang trang. Tại nội địa Hoa Kỳ, 4 trại tiếp cư được tạo dựng cấp tốc để chuẩn bị đón đồng bào tỵ nạn, mới đầu được tiếp nhận tại căn cứ Subic và Clark (Phi Luật Tân), đảo Guam ...Đó là Camp Pendleton, California (April 29), Fort Chaffee, Arkansas (May 2), Eglin Air Force Base, Florida (May 4), Fort Indiantown Gap, Pennsylvania (May 28). Quốc Hội thứ 94 của Hoa Kỳ chấp thuận Đạo luật Indochina Migration and Refugee Assistance Act vào ngày 23 tháng 5 năm 1975, dành ngân khoản cho 130,000 đồng hương ty nạn, và chấp thuận cho dễ dàng trở thành thường trú nhân.
 blank

H1: Tiến sĩ Nguyễn-Lâm Kim Oanh tiến sĩ phó khoa trưởng Janet Penner-Williams đứng giữa và ở hai bên là nhân viên phụ trách điều khiển hội thảo chuyên môn Ninth Annual ESL Symposium, đại học Arkansas, Fayetteville
 

Nhân dịp đại học Arkansas, phân khoa giáo dục và y tế, tổ chức buổi hội thảo lần thứ 9 về việc giảng huấn Anh Ngữ là ngôn ngữ thứ hai (cho các người mới định cư) The Ninth Annual ESL (English as a Second Language) Symposium, chúng tôi có dịp về thăm lại Fort Chaffee, nơi bắt đầu cuộc sống tại Hoa Kỳ của khoảng 51,000 đồng hương gốc Việt. Bà phó khoa truởng (senior associate dean), tiến sĩ Janet Penner-Williams rất để ý đến việc giáo dục sinh ngữ này với một sự giúp đỡ nhiệt tình, giáo sư Nguyễn Lâm Kim Oanh được mời làm diễn giả chính (keynote speaker) với phần chia sẻ tiến trình, từ kinh nghiệm một học sinh tỵ nạn không biết đến một chữ tiếng Anh, đến khi ra trường, tìm dạy các học sinh phải phấn đấu với Anh Ngữ như bản thân mình ngày xưa và sau đó trở thành một giáo sư chuyên môn đào tạo các giáo chức chuyên lo cho học sinh da màu, học sinh mới nhập cư và hiện tại là người xem xét các chính sách liên bang ảnh hưởng tới giáo dục học sinh và giáo viên cho các chương trình này. Sau phần trình bày chuyên môn, giáo sư KimOanh giới thiệu các tài liệu giáo dục vừa được soạn thảo của bộ giáo dục liên bang nhằm giúp các học khu đáp ứng nhu cầu giáo dục của các học sinh da màu và mới nhập cư. Buổi nói chuyện của giáo sư Kim Oanh được các thầy cô giáo và nhân viên lãnh đạo các học khu thích thú theo dõi vì các kinh nghiệm bản thân của diễn giả vẫn còn phản ảnh những thực tại của các học sinh mới đến Hoa Kỳ hiện nay. Ban tổ chức đã đặt tên bài nói chuyện LESS to MORE (the journey from Limited English Speaking Student (LESS) to Multicultural program director for the Office of English language acquisition, the story of a Refugee and immigrant Educator (MORE): hành trình của một học sinh với khả năng Anh Ngữ giới hạn, tới giám đốc chương trình đa văn hoá thuộc tổng nha trong bộ giáo dục liên bang có nhiệm vụ giúp đỡ học trình Anh Ngữ, câu truyện của một người ty nạn đi vào giáo dục giúp sự định cư).
 
Trong một sự tình cờ, nói chuyện với bà phó khoa truởng Janet Penner-Williams khi gặp bà tại một buổi họp ở Hoa Thịnh Đốn, giáo sư chúng tôi được biết bà làm việc tại đại học Arkansas (University of Arkansas) và nói là tôi rất muốn đến tiểu bang đó mà chưa có dịp mặc dầu đã đi qua rất nhiều tiểu bang khác. Chúng tôi tâm sự là gia đình vào cuối tháng 4 năm 1975 đã trở thành người tị nạn và sau đó được định cư ở HK – Fort Chaffee ở tiểu bang Arkansas là nơi gia đình chúng tôi đặt chân đến đầu tiên trên đất Hoa Kỳ mà cho đến nay tôi chưa từng có dịp trở lại. Sau đó không lâu, tôi nhận được thư mời nói chuyện cho buổi hội nghị tại trường đại học Univeristy of Arkansas. Một trong những "hứa hẹn" bà phó khoa truởng Janet Penner-Williams nói với tôi khi mời tới đại học thuyết trình là sẽ cho tôi đi thăm Fort Chaffee. Hơn bốn thập niên mới có dịp quay về chốn cũ nên rất bồi hồi, loay hoay về việc mua vé phi cơ, chúng tôi đã mua vé về thành phố Little Rock, phi trường Bill and Hillary Clinton National Airport thay vì đến thành phố Fayetteville, nơi sẽ có cuộc hội thảo, hai thành phố cách nhau gần 190 dặm và cần khoảng 3 giờ lái xe. Phi trường được đặt tên như vậy để ghi nhớ ông bà Clinton. Ông Bill Clinton sinh năm 1946, là bộ trưởng tư pháp (dân cử) thứ năm mươi, ( Arkansas 50th Attorney General from 1977 to 1979), thống đốc thứ bốn mươi, (the 40th Governor of Arkansas from 1979 to 1981), sau đó thất cử, rồi trở thành thống đốc thứ bốn mươi hai, (the 42nd Governor from 1983 to Dec 1992) và thắng cử trong cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11 năm 1992, trở thành tổng thống Mỹ thứ 42 (the 42nd President of the United States from 1993 to 2001).
 
Sau khi đến nơi chúng tôi được bà tiến sĩ Janet Penner-Williams và phu quân lái xe đến thành phố Fort Smith cách đó khoảng hơn 50 miles về phía Nam, nơi có Fort Chaffee để thăm lại nói đặt chân đầu tiên tới Hoa Kỳ và sống vài tháng trước khi xuất trại và bắt đầu cuộc sống tại xứ sở này. Qua sự dẫn giải của ông Jeff Williams và ông Bill Buchanan, người trông coi bảo tàng viện của trại Fort Smith, chúng tôi hiểu rõ hơn lịch sử của Fort Chaffee.


 
Fort Chaffee có tên khởi đầu là Camp Chaffee. Thiếu tướng Adna R. Chaffee Jr., là một sĩ quan pháo binh của quân đội Hoa Kỳ và trong Thế Chiến thứ nhất tại Âu Châu đã có nhận định viễn kiến là kỵ binh đã lỗi thời và phải thay bằng chiến xa cơ giới. Camp Chaffee được bắt đầu tạo dựng vào September 20, 1941, khi Bộ Chiến Tranh (Department of War) là tên cũ của Bộ Quốc Phòng (Department of Defense) chuẩn bị phát triển quân lực trước viễn ảnh tham chiến vào Thế Chiến thứ hai. Sau cuộc tấn công của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng December 7, 1941, trại bắt đầu nhận các tân binh và là nơi huấn luyện các sư đoàn chiến xa cho đến năm 1946. Sau đó là hậu cứ của một sư đoàn cơ giới. Tới ngày 21 tháng 3 năm 1956 thì Camp Chaffee được đổi tên thành Fort Chaffee và trở nên một cơ sở quân sự cơ hữu của lực lượng quân sự tiểu bang, Arkansas National Guard. Trong lịch sử của Fort Chaffee, vì là trung tâm nhập ngũ nên khi danh ca Elvis Presley đến trình diện để chuẩn bị phục vụ quân dịch thì nơi đây nổi tiếng được báo chí truyền hình nhắc đến và loan tin trong 4 ngày vào March 1958, cho tới khi danh ca nầy chuyển trại đi thụ huấn quân sự.

blank
 blank
blank

H2: Quang cảnh trại Fort Chaffee ngày nầy March 2017 và vào năm 1975 khi các quân nhân Hoa Kỳ phụ giúp đồng bào ty nạn

Fort Chaffee có một lịch sử lâu dài phục vụ cho các nhu cầu nhân bản:
- 1943 -1945 là trung tâm tiếp nhận 3,000 tù binh quân đội Đức Quốc trong thế chiến thứ hai
- 1975 -1976 là một trong 4 trung tâm chính tiếp nhận khoảng 51,000 người ty nạn gốc Việt và Cao Miên
- 1980 -1981 trung tâm tiếp nhận người ty nạn gốc Cuba, khoảng 26,000 người Cuban refugees.
- Tháng 9 năm 2005, Fort Chaffee là nơi định cư cho nạn nhân cơn bão Hurricane Katrina, là nơi tiếp nhận và giúp đỡ trên 10,000 người từ Louisiana, Mississippi, Texas, và các nơi khác bị ảnh hưởng bởi thiên tai này.

Chúng tôi được ông Bill Buchanan, người quản thủ cho thăm hai barracks của trại Fort Chaffee hiện tại được dùng làm Bảo Tàng Viện giữ lại nhiều di tích và vật liệu phản ảnh lịch sử của trại từ lúc bắt đâu là nơi nhận các tù binh Đức Quốc, cho đến khi là trại tị nạn cho đồng bào Việt Nam và tiếp theo đó là trại tị nạn cho người Cuban. Qua sự trao đổi thì chúng tôi nhận xét và cảm nhận được là người Việt tị nạn được một cảm tình rất sâu đậm của đồng bào trong vùng lân cận; do đó một số đồng hương gốc Việt sau khi xuất trại đã định cư tại đó, hiện tại thuộc thành phố Fort Smith. Năm năm sau khi trại Fort Chaffee tiễn người Việt tị nạn ra khỏi trại và đóng cửa vào tháng 12 năm 1975 thì năm 1980, trại Fort Chaffee lại mở cửa đón nhận người tị nạn gốc Cuba. Tuy nhiên trong thời gian ở trại, các người gốc Cuba đã nổi loạn trong trại và vì việc này khi tái tranh cử sau nhiệm kỳ đầu, thống đốc Clinton đã thất cử và vào nhiệm kỳ tiếp nối 2 năm sau mới thắng cử trở lại

Có một tờ báo được xuất bản trong Fort Chaffee có tên là Tân Dân (công dân mới), theo cựu đại úy Nguyễn Đức Nam, lúc đó đang tu nghiệp tại Hoa Kỳ cho biết thì ông được lệnh di chuyển cấp tốc về Fort Chaffee, vì là một nhà văn đã thành danh (tiểu thuyết Những Thần Tượng Mới, phụ trách chương trình Bé Ngôn Bé Luận, Mai Bê Bi của nhật báo Ngôn Luận, Chính Luận thập niên 60, trước khi nhập ngũ rồi sau đó du học tại Mỹ) ông được giao phó phụ trách thông tin báo chí cho trại.

blank
blank
blank
H3: Những hình ảnh được lưu lại trong trại, tiến sĩ Nguyễn-Lâm Kim Oanh (right) & Nguyễn Viết Kim (left) trước một tấm bảng chỉ dẫn trong trại năm 1975.


Gia đình chúng tôi cũng như bao nhiêu gia đình tị nạn cộng sản đến Hoa Kỳ năm 1975 sau đó đi định cư ở bất cứ một nơi nào có người bảo trợ. Thời gian ở trại tị nạn trên đất HK tuy tương lai bấp bênh vẫn để lại một ấn tượng đẹp trong ký ức của nhiều người. Sau những ngày lênh đênh trên biển cả như gia đình chúng tôi rời Việt Nam trên một chiến hạm Hải Quân VNCH, và những ngày hoang mang ở hai trại tiếp cư Subic Bay và Guam, thì những trại tị nạn ở Hoa Kỳ là một khởi đầu khả quan cho một cuộc đời mới. Khi nhắc tới thời gian ở trại Fort Chaffee với một số người đã từng sống ở đây, họ cũng có những ký ức đẹp nhắc tới sự giúp đỡ tận tình của những nhân viên làm trong trại – từ người lo những bữa cơm cho người tị nạn sắp hàng đi ăn một ngày 3 bữa cho đến những người dạy Anh Văn cấp tốc để chuẩn bị cho người tị nạn hoà nhập xã hội Hoa Kỳ và các nhân viên lo thủ tục hành chánh để tìm người bảo lãnh cho chúng tôi. Tất cả đều làm việc tận tình và tích cực để giúp người tị nạn Việt Nam lúc ấy. Có những tổ chức quyên góp áo quần và đồ chơi đem vào trại cho chúng tôi. Có những nhóm vào tổ chức các cuộc chơi và sinh hoạt cho trẻ em. Có những người tình nguyện vào dạy học hoặc dạy nghề cho chúng tôi. Nếu như người Việt tị nầy thời ấy gặp phải bối cảnh chính trị chống đối và từ chối giúp đỡ như hiện tại thì chắc chắn đời sống mới và những bước đầu của người Việt tị nạn sẽ khó khăn hơn gấp bội. Chính vì sự phụ giúp của những chính sách này mà người dân của đợt tị nạn 1975 đã vững mạnh để đủ sức tiếp tay giúp đỡ những đợt người Việt tị nạn tiếp theo qua các thập niên 80 và 90 cho tới khi có những chương trình chính thức của chính phủ liên bang Hoa Kỳ như ODP và HO. Cho tới nay thì sự đóng góp lại của người Mỹ gốc Việt khắp nơi trên Hoa Kỳ trị giá gấp bội những sự cứu trợ và trợ giúp cho đồng bào tị nạn Việt Nam. Ai qua tới HK cũng hiểu giá trị của cơ hội và tận tâm tận lực xây dựng một cuộc sống mới.


Cuộc đi thăm lại trại tị nạn Fort Chaffee đã để lại cho chúng tôi hai cảm xúc, một là lòng biết ơn sâu xa đến người Hoa Kỳ và chính sách tị nạn lúc ấy, hai là niềm tin vào tiềm năng của người di dân, bất cứ từ đâu đến. Họ là những người có nhiều động lực nhất để tiếp nối đóng góp và xây dựng giúp nền kinh tế và xã hội Hoa Kỳ tiếp tục bành trướng.



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
Đến giữa tháng 3 năm nay, hầu hết chúng ta đều thấy rõ, Donald Trump sẽ là ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng Hòa và Joe Biden là ứng cử viên tổng thống của Democrat. Ngoại trừ vấn đề đột ngột về sức khỏe hoặc tử vong, có lẽ sẽ không có thay đổi ngôi vị của hai ứng cử viên này. Hai lão ông suýt soát tuổi đời, cả hai bộ não đang đà thối hóa, cả hai khả năng quyết định đều đáng nghi ngờ. Hoa Kỳ nổi tiếng là đất nước của những người trẻ, đang phải chọn lựa một trong hai lão ông làm người lãnh đạo, chẳng phải là điều thiếu phù hợp hay sao? Trong lẽ bình thường để bù đắp sức nặng của tuổi tác, con đường đua tranh vào Tòa Bạch Ốc, cần phải có hai vị ứng cử viên phó tổng thống trẻ tuổi, được đa số ủng hộ, vì cơ hội khá lớn phải thay thế tổng thống trong nhiệm kỳ có thể xảy ra. Hơn nữa, sẽ là ứng cử viên tổng thống sau khi lão ông hết thời hạn bốn năm. Vị trí và vai trò của nhân vật phó này sẽ vô cùng quan trọng trong lần tranh cử 2024.
Không phải “học” mà là bắt, là tóm đầu, là tống cổ vào nhà giam: khi cân bằng quyền lực ở Hà Nội xáo trộn với tiền chấn rung chuyển tận Amsterdam thì cái khẩu hiệu quen thuộc của Vladimir Lenin ngày nào cũng phải được cập nhật. Không còn “Học, học nữa, học mãi” mà, táo tợn hơn, hệ thống quyền lực đang giỡn mặt Lenin: “Bắt, bắt nữa, bắt mãi”.
Câu chuyện kể từ xa xưa, rất xa xưa, là từ thời đức Phật còn tại thế: Có một người Bà La Môn rất giầu có và rất quyền thế, ông thích đi săn bắn thú vật trong rừng hay chim muông trên trời. Một hôm đó, ông bắn được một con thiên nga to đẹp đang bay vi vút trong bầu trời cao xanh bát ngát thăm thẳm trên kia. Con thiên nga vô cùng đẹp bị trúng đạn, rơi xuống đất, đau đớn giẫy và chết. Ông liền chạy tới lượm thành quả của ông và xách xác con thiên nga lộng lẫy về cho gia nhân làm thịt, làm một bữa nhậu, có lẽ.
Dù đã từ trần từ lâu, Võ Văn Kiệt vẫn được người đời nhắc đến do một câu nói khá cận nhân tình: “Nhiều sự kiện khi nhắc lại, có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Tôi vốn tính hiếu chiến (và hiếu thắng) nên lại tâm đắc với ông T.T này bởi một câu nói khác: “Chúng tôi tự hào đã đánh thắng ba đế quốc to”. Dù chỉ ngắn gọn thế thôi nhưng cũng đủ cho người nghe hiểu rằng Việt Nam là một cường quốc, chứ “không phải dạng vừa” đâu đấy!
Lý do ông Thưởng, ngôi sao sáng mới 54 tuổi bị thanh trừng không được công khai. Tuy nhiên, theo báo cáo của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan chức năng, thì ông Võ Văn Thưởng “đã vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm...
Cứ theo như lời của giáo sư Nguyễn Văn Lục thì T.T. Thích Trí Quang là tác giả của câu nói (“Cộng Sản nó giết mình hôm nay, mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu!”) thượng dẫn. Tôi nghe mà bán tin bán nghi vì nếu sự thực đúng y như vậy thì hoa hòe ở Việt Nam phải trồng bao nhiêu mới đủ, hả Trời?
Đảng CSVN tự khoe là “ niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc“của nhân dân, nhưng sau 94 năm có mặt trên đất nước, thực tế đã chứng minh đảng đã cướp mất tự do của dân tộc, và là lực cản của tiến bộ...
Khi Kim Dung gặp Ian Fleming cả hai đều hớn hở, tay bắt mặt mừng và hể hả mà rằng: “Chúng ta đã chia nhau độc giả của toàn thể thế giới”. Câu nói nghe tuy có hơi cường điệu (và hợm hĩnh) nhưng sự hỉ hả của họ không phải là không có lý do. Số lượng sách in và số tiền tác quyền hậu hĩ của hai ông, chắc chắn, vượt rất xa rất nhiều những cây viết lừng lẫy cùng thời. Ian Fleming đã qua đời vào năm 1964 nhưng James Bond vẫn sống mãi trong… sự nghiệp của giới làm phim và trong… lòng quần chúng. Tương tự, nhân vật trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung sẽ tiếp tục là những “chiếc bóng đậm màu” trong tâm tư của vô số con người, nhất là người Việt.
Trong tháng Hai vừa qua, cái chết đau thương, lẫm liệt của nhà đối kháng người Nga Alexei Navalny trong tù đã gây sầu thảm, phẫn nộ cho toàn cộng đồng tiến bộ nhân loại. Đối với người Việt Nam tiến bộ, nỗi đau lại càng sâu thêm khi trong ngày cuối cùng của tháng Hai, ngày 29, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội bắt đi cùng lúc hai nhà đấu tranh kiên cường...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.