Hôm nay,  

Những thách thức cho chủ nghĩa tự do

18/01/201708:44:00(Xem: 4146)
Những thách thức cho chủ nghĩa tự do
 
Đoàn Hưng Quốc
 

Dân chúng ở nhiều nước kể cả Tây Phương đang chống lại sự áp đặt phi lý của một trật tự do toàn cầu (liberal international order), hay còn bị gọi tự do bá quyền (liberal hegemony), vượt lên trên chủ quyền, văn hóa và lịch sử của từng quốc gia.

Tư tưởng về tự do được thể hiện ngắn gọn trong phần mở đầu của Hiến pháp Hoa Kỳ “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng… trong đó có quyền được sống, tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Thế giới đã lật đổ nhiều chế độ phong kiến, giáo quyền, độc tài, kỳ thị màu da và giới tính để con người có quyền chọn lựa nhà nước và được bình đẳng trước pháp luật.
 

Những cuộc cách mạng đầu tiên nằm trong khuông khổ từng quốc gia như ở Mỹ 1783 và Pháp 1789. Nhưng sau Thế chiến thứ hai các nước dân chủ Tây Phương kết luận rằng muốn có hòa bình phải hợp tác xây dựng một trật tự trong tự do (liberal order) nhằm mang lại ổn định về chính trị và và kinh tế trên toàn thế giới. Bài học nói trên rút ra từ cuộc lạm phát phi mã ở Đức năm 1922-23 vốn dẫn đến nạn Quốc xã, cuộc Đại khủng hoảng toàn cầu 1929 và sự bất lực của Hội Quốc Liên trong việc giải quyết những mâu thuẫn sau Thế chiến thứ nhất. Từ đó Liên Hiệp Quốc, IMF, World Bank được thành hình, riêng Âu-Mỹ lập thêm khối NATO với mục tiêu bảo vệ thế giới tự do (free world) trước sự bành trướng của phong trào quốc tế cộng sản.
 

Sự kiện Liên Xô sụp đổ vào năm 1989 khiến Tây phương trở nên lạc quan đánh giá rằng trào lưu dân chủ tự do (liberal democracy) là hướng tiến tất yếu của nhân loại. Quan điểm này được thể hiện rõ ràng nhất qua quyển sách nổi tiếng The End of History and the Last Man (Hồi kết của Lịch sử) của học giả Francis Fukuyama. Hoa Kỳ tin vào một trật tự thế giới mới (new world order) dựa trên hợp tác quốc tế, thông tin Internet và thương mại toàn cầu (global trade), cộng thêm sức mạnh quân sự của Mỹ sẽ đẩy mô hình tự do lan rộng đến cả Nga, Trung Quốc và các nước đang mở mang. Sau Chiến tranh Lạnh Hoa Kỳ với sự đồng thuận của Liên Hiệp Quốc đã dùng quân đội đánh đuổi Iraq ra khỏi Kuwait năm 1990; Hiệp ước mậu dịch Bắc Mỹ NAFTA ký kết năm 1992; WTO ra đời năm 1994; khu vực tiền tệ chung Âu Châu Eurozone thành hình năm 1999. Những thời khắc nói trên có thể được xem như điểm cao của trào lưu toàn cầu hóa (globalization), nhưng giờ đây bị nhiều người phản đối như đã khai mầm cho niềm lạc quan ấu trĩ (irrational exuberant, mượn theo cụm từ của ông Alan Greenspan dùng trong kinh tế) khiến Hoa Kỳ theo đuổi mù quáng chính sách can thiệp quốc tế (interventionism) nhằm áp đặt một trật tự tự do toàn cầu thông qua áp lực kinh tế chính trị hay ngay cả bằng vũ lực, còn những thỏa ước thương mại quốc tế đã ký kết chỉ mang lợi cho giai cấp ưu đãi (elite) mà thiệt hại đến người dân bình thường ở các nước Tây Phương.
 

Hai biến cố vô cùng quan trọng làm lịch sử đổi chiều gồm chiến tranh Iraq năm 2003 và suy thoái kinh tế 2007-08. Chính quyền Bush nhân sự kiện khủng bố ở Washington D.C. và New York đã quyết định lật đổ nhà độc tài Saddam Hussein với hy vọng gieo mầm móng tự do trong thế giới Hồi giáo. Nhưng Mỹ bị sa lầy tại Iraq; những năm sau đó Tây Phương hậu thuẫn phong trào Cách mạng Hoa nhài, kết quả lại khiến nhiều nước Trung Đông và Bắc Phi tan rã dẫn đến hai tấn thảm kịch nhân loại ở Lybia, Syria cùng với sự trỗi dậy của ISIS. Hoa Kỳ đánh mất tính chính đáng (legitimacy) vì đã đơn phương sử dùng vũ lực áp đặt mô hình dân chủ tại Trung Đông; bài học cho thế giới và dân chúng Mỹ thấy đây là cuộc phiêu lưu ngu xuẩn và vô cùng tốn kém vì không đếm xỉa gì đến nét văn hóa và xã hội đặt thù trong khu vực. Trên phương diện tư tưởng, câu hỏi đặt ra là liệu mô hình dân chủ tự do có thật sự mang giá trị phổ quát hay không trong một thế giới vốn còn quá nhiều khác biệt về văn hóa và lịch sử – đề tài do cố giáo sư Samuel Huntington phân tích trong quyển sách Clash of Civilizations and the Remaking of World Order (Sự va chạm của các nền văn minh) nay được xem như lời tiên tri cho các tranh chấp trong thế kỷ 21.
 

Cuộc Đại suy về thoái kinh tế năm 2007-08 tại Hoa Kỳ và sau đó ở Âu Châu cùng với sự trỗi dậy của Trung Quốc cho thấy trào lưu thương mại toàn cầu không mang đến lợi ích đồng đều đến cho dân chúng Tây Phương. Giai cấp tinh hoa (elite) từng quảng bá rằng mức sống của mọi người sẽ nâng cao từ toàn cầu hóa, nhưng rồi không ít dân Âu-Mỹ bị đánh mất công ăn việc làm do cạnh tranh từ những nước đang phát triển. Cho dù thế giới có hàng tỷ người thoát ra khỏi nạn nghèo đói trong vòng 25 năm nhưng bù lại khoảng cách giàu nghèo tăng vọt giữa các tập đoàn tư bản đa quốc gia cùng thành thị vốn thích nghi với toàn cầu hóa, trái ngược với nông thôn vốn không chạy theo nhịp độ thay đổi cuồng loạn. Lần đầu tiên trong nhiều thế kỷ dân chúng Tây Phương bi quan cho rằng con cháu họ sẽ nghèo đi trong tương lai.

Các nguồn tiền khổng lồ lưu chuyển dễ dàng giữa biên giới quốc gia (financial liberalization) cộng với sự hình thành khu vực đồng Euro là hai nguyên do góp phần dẫn đến nhiều cuộc khủng hoảng liên tục 2007-09 ở Mỹ, 2009-13 tại Âu Châu, 2013-16 sang đến Trung Quốc và các nước đang phát triển. Thêm vào đó làn sóng di cư ào ạt trà trộn với khủng bố, tội phạm và lạm dụng an sinh xã hội khiến dân chúng Tây Phương hoang mang cho rằng xã hội đang bị xói mòn, đất nước đang bị lỡ lói ngay trước mắt của chính họ. Dân chúng Âu-Mỹ đòi hỏi phải đắp đê điều ngăn cản cơn bão toàn cầu hóa.
 

Nhưng WTO, NAFTA, TTP và TTIP hạ thấp hàng rào thuế quan; Hiệp ước Shengen không cho các quốc gia Âu châu có quyền kiểm soát biên giới; đồng Euro tước mất quyền định đoạt của mỗi nước về giá trị đồng tiền. Người Mỹ phẫn nộ khi cuộc sống của họ bị quyết định bởi tầng lớp tinh hoa (elite) còn dân chúng Âu tức giận vì đánh mất chủ quyền quốc gia vào tay Brussels (thủ phủ Liên-Âu) và Berlin (do nước Đức quá mạnh thành ra áp đặt trật tự lên toàn châu Âu). Các phong trào Đại chúng (popularism) nổi lên giúp Brexit và Donald Trump thắng cử nhưng với số phiếu vô cùng sít sao cho thấy xã hội Tây Phương đang bị xâu xé nặng nề giữa trào lưu toàn cầu hóa và tinh thần quốc gia (nationalism).
 

Phản ứng chống lại trật tự tự do toàn cầu không chỉ giới hạn ở Tây Phương. Nga-Trung-Iran đều là những cường quốc văn minh lâu đời nên nay muốn khôi phục lại vai trò của họ trong một thế giới đa cực (multipolar world) và thoát ra khỏi ảnh hưởng của tư tưởng tự do phóng khoáng từ Tây Phương. Các nước này tuy không muốn đảo lộn trật tự hiện thời của thế giới nhưng lại quyết tâm bành trướng ra những khu vực lân cận vốn bị xem như vùng ảnh hưởng truyền thống, một phần do tâm lý bá quyền nước lớn nhưng cũng để tự bảo vệ với khu vực trái độn ngăn ngừa Tây Phương xâm lấn như đã từng xảy ra trong các thế kỷ 19 và 20 bởi thực dân và phát xít.
 

Nhiều nước Đông-Âu và những quốc gia đang mở mang cũng không ưa thích gì thái độ trưởng thượng (paternalistic) của giới tinh hoa và các chính quyền Tây Phương vốn đòi hỏi tiêu chuẩn quá cao cho quyền tự do của người đồng tính và chuyển giới (LGBT), hôn nhân đồng phái và việc hủy bỏ án tử hình cho các trọng tội. Mô hình xã hội dân chủ (social democrat) của Âu Châu bị xem là yếu đuối, tình trạng chia rẽ của chính quyền Hoa Kỳ bị đánh giá như kém hiệu năng khi so sánh với Trung Quốc phi dân chủ nhưng lại đang trên đà tiến nhanh chóng trở thành cường quốc hàng đầu trong thế kỷ thứ 21. Tại nhiều quốc gia như Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Phi Luật Tân, Thái Lan các nhà cầm quyền độc tài đã hô hào rằng trật tự xã hội ưu tiên cao hơn tự do cá nhân, còn ở Đông Âu các nước Ba Lan, Hung Gia Lợi và Bulgaria nghiêng dần về mô hình dân chủ phi tự do (illiberal democracy).
 

Nói tóm lại, chủ nghĩa tự do đang đi một vòng tròn bắt đầu với cách mạng trong mỗi quốc gia, trở thành mô hình cho toàn thế giới và nay trở lại do người dân trong mỗi nước tự quyết định.

Câu hỏi đặt ra khi thế giới quay mặt lại với trật tự do toàn cầu liệu có làm các nhà đấu tranh cho dân chủ nhân quyền hoang mang nản chí hay không? Cuộc đấu tranh sẽ khó khăn hơn và các nhà cầm quyền độc tài lại có thêm lý lẽ để tuyên truyền cổ võ cho chế độ, nhưng câu trả lời rất đơn giản: nơi nào có áp bức nơi đó có đấu tranh. Các nhà cầm quyền độc tài không thể che dấu người dân một khi tước đoạt phương tiện sống của họ. Mô hình trật tự toàn cầu có thể sẽ phải sửa đổi, thế giới trở thành đa cực và riêng với Việt Nam phải chấp nhận thực tế rằng ảnh hưởng từ Trung Quốc ngày càng mạnh so với Tây Phương. Nhưng “mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng…”  mới là một thực tế hiển nhiên không bao giờ thay đổi như đã quy định trong nhiều bản Hiến pháp.




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.