(Lời tâm tình: Bài viết về “Sử Việt” chỉ khái quát, không đi sâu từng chi tiết của mỗi nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có chỉ là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung đã biên soạn. Trang Sử Việt luôn mong mỏi nhúm nhen tình tự dân tộc, niềm yêu thương quê hương và giữ gìn Việt ngữ cùng văn hóa Việt. Trang Sử Việt đăng trên Vietbao Online thứ Ba và thứ Sáu hằng tuần).
________________
TRỊNH VĂN CẤN
(1881 - 1918)
Trịnh Văn Cấn tên thật là Trịnh Văn Đạt, thường gọi Đội Cấn vì ông làm đội trưởng lính khố xanh; quê phủ Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc, là con rể chí sĩ Phùng Văn Nhuận. Ông chủ động đến nhà tù thăm nhà ái quốc Lương Ngọc Quyến. Sau khi ông mật đàm cùng Lương Ngọc Quyến về tình tự dân tộc và tội ác của thực dân Pháp, ông hưởng ứng, rồi thuyết phục các bạn đồng nghiệp của mình: Đội Giá, Cai Xuyên và 300 lính lê dương cùng trở về với dân tộc.
Bàn bạc kín, quân khởi nghĩa đề cử Đội Cấn là Tư lệnh trưởng, Lương Ngọc Quyến làm Quân sư. Đêm 30-8-1917, khởi nghĩa bùng nổ, Nghĩa quân giết giám binh Pháp là Noel, giết cai ngục Loew và phá nhà tù cứu Lương Ngọc Quyến và giải phóng 230 tù nhân, số tù nhân này đều gia nhập vào lực lượng nghĩa quân. Nghĩa quân làm chủ Thái Nguyên 7 ngày và tuyên bố “Thái Nguyên độc lập”, lá cờ được dùng ở đây là quân kỳ màu vàng đề 4 chữ "Nam binh phục quốc" của Việt Nam Quang Phục Hội bay phất phới trên đầu thành.
Quân của Đội Cấn giữ thành Thái Nguyên, thu nạp thêm các dân phu mỏ và dân địa phương nâng quân số lên khoảng 600 người. Lực lượng khởi nghĩa gồm: 130 lính vệ binh, hơn 200 tù nhân, 300 dân phu và dân địa phương. Quân khởi nghĩa được trang bị các loại vũ khí: 92 súng hoả mai và 75 súng trường, đã thu được từ kho vũ khí của Pháp. Lực lượng khởi nghĩa cố thủ và truyền hịch đánh thực dân Pháp, mong đợi các nơi hưởng ứng cùng nổi dậy và sự tiếp ứng của Việt Nam Quang Phục Hội để đồng khởi nghĩa toàn quốc.
Ngày 2-9-1917, quân Pháp phản công với quân số 2.700 người và đến ngày 5-9-1917 thì đánh vào tỉnh lỵ. Lương Ngọc Quyến tử tiết. Đội Cấn phải triệt thoái khỏi Thái Nguyên chạy về phía bắc. Đến trưa ngày 5 thì Pháp tái chiếm được thành. Số thương vong bên nghĩa quân là 56 người; quân Pháp thiệt mạng 107 người. Pháp đưa đại binh từ Hà Nội tiếp viện, vì quân số, vũ khí chênh lệch, khó giữ lâu dài nên ông ra lệnh rút lui về Vĩnh Yên. Hơn 4 tháng chống chọi ác liệt với giặc Pháp, dần dần đạn dược, lương thực kiệt quệ.
Ngày 10-1-1918, đụng trận ác liệt, ông bị thương đã anh dũng dùng súng lục tuẫn tiết. Ngô Đức Kế nghe tin, dù ở tù nơi Côn Đảo đã làm 6 bài thơ tứ tuyệt: “Thái Nguyên thất nhật quang phục ký” rất hào hùng, đáng ghi nhớ 2 câu:
“Uất không giai khí sơn hà tại
Dạ dạ phần hương chúc hậu sinh”
Nghĩa là: “Khí thiêng phảng phất hồn sông núi
Hương khói sáng soi kẻ hậu sinh.”
*- Thiết nghĩ: Cuộc khởi nghĩa do Trịnh Văn Cấn lãnh đạo ở Thái Nguyên, kéo dài hơn 4 tháng (30-8-1917 đến 10-01-1918), đã làm cho chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương hoảng hốt và cả thế giới ngưỡng mộ. Cuộc khởi nghĩa không chỉ làm chấn động người Pháp ở Đông Dương mà còn làm chấn động cả nước Pháp. Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917, chẳng những vang dội ở Việt Nam mà còn đánh thức tinh thần quật khởi giải phóng dân tộc cho tất cả các nước bị trị. Trịnh Văn Cấn là viên cai đội lính khố xanh ở Thái Nguyên, đã chủ động đến gặp chí sĩ Lương Ngọc Quyến đang bị giam ở nhà tù Thái Nguyên, cùng mật bàn kế sách quật khởi chống thực dân Pháp, ông đã bộc phát lòng ái quốc chân chính, đúng lúc. Người sống trên đời muốn lưu danh thơm phải sắt son ái quốc để cho hậu thế ngưỡng mộ hay để tiếng xấu ô nhục bán nước cầu vinh là do chính mình tự lựa chọn và quyết định trong khoảnh khoắc khi có cơ hội. Trịnh Văn Cấn đã quyết định đúng nên tên tuổi ông đã và sẽ lẫy lừng muôn thuở, thật là “Mai cốt bất mai danh“ vậy (xương cốt có thể chôn chứ không chôn danh dự)?!
Cảm mộ: Trịnh Văn Cấn
Trịnh Văn Cấn, khí khái kiên cường!
Nhịn nhục theo Tây, gẫm bất lương?!
Thức tỉnh, ăn năn, thân phản quốc
Giật mình, hối tiếc, phận lầm đường!
Vẫy vùng chống Pháp, lo nòi giống
Đánh đuổi ngoại xâm, giữ thổ cương
Cơm áo xênh xang, nghiền ngẫm thẹn
Nước nhà quang phục, nguyện lo lường!
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn