Hôm nay,  

Kinh tế học trong thời kỳ bất ổn chính trị

05/12/201610:02:00(Xem: 4008)
Kinh tế học trong thời kỳ bất ổn chính trị
 
Michael Spence
Đỗ Kim Thêm dịch
 

Trong hơn 35 năm qua, các nền dân chủ phương Tây đã chứng kiến môt sự bộc phát về tình trạng bất ổn chính trị, mà đặc điểm chính là do sự thay đổi thường xuyên trong các đảng cầm quyền và các chương trình và quan điểm triết lý của họ, tình hình này ít nhất một phần là do việc thay đổi và khó khăn kinh tế. Vấn đề hiện nay đặt ra là làm thế nào để cải thiện thành tựu kinh tế trong một thời điểm khi các bất ổn chính trị đang làm cản trở việc tạo lập một chính sách có hiệu quả.
 

Trong một bài báo gần đây, David Brady, một trong các cộng sự viên của chúng tôi, cho thấy là có mối quan hệ giữa tình hình bất ổn chính trị ngày càng tăng và mức thành tựu kinh tế ngày càng giảm. Ông chỉ ra rằng các nước có thành tựu kinh tế dưới mức trung bình đã trải qua những biến động nhất trong các cuộc bầu cử. Cụ thể hơn là có sự bất ổn này tương ứng cùng với vấn đề giảm phần đóng góp của nhân dụng trong khu vực công nghiệp hoặc sản xuất ở các nước tiên tiến. Mặc dù mức độ giảm có đôi chút khác nhau giữa các quốc gia – ví dụ tình trạng này ít thể hiện rõ nét ở Đức hơn là ở Hoa Kỳ, - đó là một mô hình khá phổ biến.
 

Đặc biệt là trong hơn 15 năm qua, công nghệ kỹ thuật số ngày càng mạnh cho phép tự động hóa và xóa bỏ các công việc "theo thông lệ " trong giới công chức và công nhân. Với những tiến bộ về người máy, tài liệu, kỹ thuật 3D, và thông minh nhân tạo, người ta có thể mong đợi một cách hợp lý là các phạm vi công việc "theo thông lệ" có thể được tự động hoá sẽ tiếp tục mở rộng

Sự trỗi dậy của công nghệ kỹ thuật số cũng làm tăng khả năng quản lý của doanh nghiệp trong việc điểu khiển một cách hiệu quả về nhiều chuỗi cung ứng trên toàn cầu do nhiều nguồn phức tạp, và do đó mà doanh nghiệp tận dụng được lợi thế trong việc hội nhập kinh tế toàn cầu. Khi các dịch vụ ngày càng trở nên có thể trao đổi mậu dịch (xuất khẩu), việc làm trong khu vực công nghiệp sản xuất giảm đều đặn, mức giảm từ 40% trong năm của thập niên 1960 đến khoảng 20% hiện nay. Nhưng ở các nước tiên tiến nhất, các khu vực có thể giao hoán (xuất khẩu) đã không tạo ra nhiều công việc, ít nhất là không đủ để bù đắp sự sụt giảm trong khu vực chế biến. Ví dụ như tại Hoa Kỳ, việc phát sinh nhân dụng trong 1/3 của nền kinh tế sản xuất cho hàng hóa và dịch vụ để có thể xuất khẩu, nói chung, thì hầu như không tạo công việc trong vòng hai thập niên qua.
 

Một phần là do tác động của những khuynh hướng này mà tỷ trọng thu nhập quốc gia của khu vực lao động trong những năm đầu tiên của thời kỳ hậu chiến đã tăng lên, nó bắt đầu giảm vào những năm của thập niên 1970. Trong khi toàn cầu hóa và công nghệ kỹ thuật số đã tạo ra những lợi ích trên diện rộng, trong các hình thức chi phí thấp hơn cho hàng hóa và trong mảng rộng cuả các dịch vụ, tất cả cũng đã tạo ra và sự phân cực trong công việc và thu nhập, trong khi loại công việc có thu nhập trung bình có phần giảm và loại công việc có thu nhập cao hơn và thấp hơn có phần tăng, từ đó tạo ra hố cách biệt cách trong việc phân phối lợi tức. Do hệ thống an sinh xã hội và các đối sách khác nhau, mà mức độ của sự phân cực này thay đổi tùy theo từng quốc gia.

Cho đến năm 2008, khi cuộc khủng hoảng kinh tế tác động nhiều nơi trên thế giới, những mối quan tâm liên quan đến sự bất bình đẳng ngày càng tăng lên, ít nhất một phần nó bị che khuất bởi nợ công cao, với mức công chi và các hiệu ứng thịnh vượng từ giá tài sản tăng, nó hỗ trợ cho việc tiêu thụ trong gia dụng và làm vực dậy tăng trưởng và tạo được việc làm. Khi mô hình tăng trưởng đó bị phá vỡ, tình hình kinh tế và chính trị xấu đi nhanh chóng.

Chuyện rõ ràng nhất là giảm tăng trưởng và nhân dụng đã tạo những tác động trái ngược trong sự phân cực công việc và thu nhập. Ngoài những vấn đề thực tế hiển nhiên này, tình hình còn gây ảnh hưởng về ý nghĩa bản sắc của người dân.
 

Trong thời đại công nghiệp hậu chiến, người ta có thể mong đợi một cách hợp lý là đạt được một cuộc sống tươm tất, hỗ trợ gia đình, và đóng góp một cách rõ ràng cho sự thịnh vượng chung của đất nước. Bị đẩy vào lĩnh vực dịch vụ không có giá trị giao dịch, với mức thu nhập thấp và việc làm ít bảo đảm, tất cả tạo ra tình trạng mất tự tin, cũng như oán giận đối với hệ thống mang lại sự thay đổi. (Nó cũng không giúp gì trong khi hệ thống này giải cứu các chính phạm gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế, đó là ngành tài chính - một trào lưu thể hiện một sự khác biệt rõ rệt giữa tình hình khẩn cấp và sự sòng phẳng).

Trong khi sự thay đổi kinh tế do công nghệ điều động không phải là chuyện mới, chuyển biến này đã không bao giờ xảy ra một cách nhanh chóng hoặc trên một quy mô lớn như đã xảy ra trong hơn 35 năm qua, khi nó đã được tăng tốc theo nhịp của trào lưu toàn cầu hóa. Nhờ kinh nghiệm và có may mắn làm nhiều người dân thay đổi nhanh chóng, giờ đây họ tin rằng động lực mãnh liệt đang hoạt động ngoài sự kiểm soát của cơ cấu chính quyền hiện có, thoát khỏi sự can thiệp của chính sách. Và ở một mức độ nào đó thì họ có lý.

Kết quả là tình trạng mất niềm tin đang lan rộng về các động cơ thúc đẩy, khả năng và thẩm quyền của chính phủ. Cảm xúc này có vẻ như không giảm khi người ta nhận ra được tính cách phức tạp của các thách thức, mà nội dung của nó là nhầm duy trì các động lực khích lệ và các năng động trong khi phải giải quyết tình trạng bất công ngày càng tăng (trong trường hợp đặc biêt nhất là làm giảm đi các bình đẳng về cơ hội và năng động giữa các thế hệ).

Như Brady chứng minh là trong thời kỳ ổn định hơn ngay sau Đệ Nhị Thế chiến, các mô hình phát triển phần lớn đều tạo thuận lợi theo góc độ phân phối và các đảng phái chính trị đã được tổ chức chủ yếu là xoay quanh lợi ích của lao động và tư bản, nó được bao phủ qua lợi ích chung do Chiến tranh Lạnh. Khi kết quả đã ngày càng trở nên bất bình đẳng, đã có một sự phân hoá của các lợi ích trong phạm vi bầu cử, dẫn đến sự bất ổn trong kết quả bầu cử, tê liệt chính trị, và thay đổi thường xuyên trong khuôn khổ chính sách và đường hướng.
 

Điều này mang lại một số hậu quả kinh tế. Một là sự bất trắc do chính sách gây ra, mà trong đó trong hầu hết các trường hợp, nó đưa tới một sự trở ngại chính cho đầu tư. Một trở ngại khác là sự thiếu rõ ràng trong sự đồng thuận về một chương trình nghị sự để phục hồi tăng trưởng, giảm thất nghiệp, tái thiết lập một mô hình nối kết toàn diện, và duy trì những lợi ích của sự liên kết toàn cầu.

Ở một mức độ, thật là khó khi không nhận ra vấn đề này như là một chu kỳ hủy diệt tự tạo. Bất ổn chính trị làm giảm khả năng xác định và thực hiện một chương trình nghị sự về chính sách kinh tế toàn diện hợp lý, chặt chẽ và bền vững. Kết qủa về tình trạng dai dẳng của tăng trưởng chậm, thất nghiệp nhiều, bất công lan rộng tạo nên bất ổn chính trị liên tục và phân hoá, trong đó nó tiếp tục làm suy yếu khả năng các giới chức trong việc thực thi các chính sách kinh tế cho có hiệu quả.
 

Nhưng ở một mức độ khác, những khuynh hướng này thực sự có thể chứng minh là lành mạnh, đứng trước những lo ngại về toàn cầu hóa, chuyển đổi cơ cấu và điều hướng - mà cho đến nay nó đã được thể hiện chủ yếu ở các đường phố - thì trào lưu này tạo nên một tiến trình chính trị. Cuối cùng, sự kết nối trực tiếp giữa các mối quan tâm của người dân và chính quyền theo kiểu này là một sức mạnh chính của dân chủ.

Khi một quốc gia đang phát triển bị mắc kẹt trong một trạng thái cân bằng không tăng trưởng, tìm sự đồng thuận về tương lai để tăng trưởng toàn diện luôn luôn là bước quan trọng đầu tiên hướng tới việc đạt được hiệu quả kinh tế tốt hơn và các chính sách hỗ trợ. Đó là những gì các nhà lãnh đạo làm việc có hiệu năng nhất đã thực hiện. Đối với các nước đang phát triển nguyên tắc là cũng giống nhau. Hy vọng lớn nhất của chúng tôi là các nhà lãnh đạo ngày nay hiểu và sẽ tuân thủ nó, từ đó tạo năng lượng sáng tạo để làm việc trên một tầm nhìn mới mà áp dụng những nước của họ, taọ ra một con đường dẫn đến sự thịnh vượng và công bằng hơn.

 

***

 

Michael Spence đoạt giải Nobel Kinh tế, Giáo sư Kinh Tế học tại NYU Stern School of Business, tác giả cuốn The Next Convergence – The Future of Economic Growth in Multispeed World. Nguyên tác: Economics in a Time of Political Instability.

           

https://www.project-syndicate.org/commentary/inclusive-growth-political instability-by-michael-spence-and-david-brady-2016-03



.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
Việt Nam bước vào năm Giáp Thìn 2024 với gánh nặng tham nhũng và một đội ngũ “không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức lối sống. Đó là cảnh báo của người đứng đầu đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc phỏng vấn đầu năm của Thông Tấn Xã Việt Nam...
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.