Chú Giải
Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký
Nguyễn Văn Sâm
(Chuyện 68-70. Sẽ đăng tiếp)
Quyển Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký là quyển sách bán chạy nhứt của nhà văn nầy. In tới lui nhiều lần, năm 1914 đã in tới ngàn thứ chín. Những lần in không đề tái bản lần thứ mấy và in bao nhiêu thì phải nói là cơ man.
Tại sao quyển truyện mỏng nầy lại có sức hấp dẫn như vậy? chính là nhờ ông Trương khi viết đã đưa ra hai mục tiêu và đã làm gần như trọn vẹn
1. Giáo dục về luân lý. Người đọc cẩnthận sẽ thấy những bài học tốt cho cách ở đời, cách xử thế, ứng xử trong trạng huống cần thiết, đề phòng kẻ xấu, chớ cả tin..
2. Dùng tiếng Annam (Việt Nam) ròng. Trong toàn quyển chuyện không sự kiện làm văn chương, mặc dầu điều nầy không hẵn là xấu, mà chỉ có sự sử dụng tiếng Việt thường nhựt, với những từ ngữ của người bình dân. Người đọc đón nhận cũng vì lẽ đó.
Ngoài ra vì tác giả khéo léo cho thấy sinh hoạt của dân chúng có thể nói là cuối thế kỷ 19 nên đây là nguồn tư liệu dồi dào về những chi tiết của cuộc sống dân ta mà gần như ngày nay không thể thấy (ăn ong, ăn bánh lớ, cái chày mổ, sư làm đám, hầm bắt cọp, bắt chồn, tục mai dong, tục ở rể…).
Sách viết hơn trăm năm trước, bằng chữ của dân miền cực Nam nên chắc chắn là khó hiểu với phần đông người đọc hiện giờ. Sự chú giải những từ nầy là cần thiết nên quyển sách Chú Giải Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký có lý do để ra đời.
Victorville, CA, tháng 11, 2016
68. Người hay đi kiếm ăn.
Có người kia có tài hay đi ăn chực. Hễ đâu có đám tiệc, thì có anh ta, tới cà xốc[1] kiếm ăn mà thôi. Có một người ở lối đó thấy gai con mắt[2], tính gạt nó một chuyến chơi, cho nên biểu vợ xách tiền đi chợ, giả đồ đi mua đồ về dọn tiệc.
Chú chàng gặp bưng rổ đi mua đồ về nấu dọn. Anh ta nghe men tới, thấy dọn dẹp lớn, la lết[3] ở đó chờ ăn. Chồng láy[4], vợ giả đò đau bụng, nhào lộn đứng sức, rên la om sòm.
Tiệc dọn đã rồi, bỏ đó chạy lo thuốc men. Anh bợm ta cũng chạy xăng văng hỏi thăm người chồng: Sao, đã nhẹ chưa? Chồng bứt đầu bứt óc nói: Cha chả! Khó lòng thì thôi! Rủi bữa nay có việc sai thằng kia đi khỏi! Chứng bịnh nầy có một thứ máu cam[5] làm thuốc trị mới đặng mà thôi, thằng đó mọi lần có vậy thì nó kiếm mau lắm.
Anh ta nóng, sợ đồ ăn nguội đi: thôi biểu trẻ đưa cái chén đây cho tôi kiếm cho. Nó mới giang cánh tay nó ra, nó đấm mũi nó cho chảy máu ra.
Ngồi đợi coi có khá không, một lát chạy hỏi thăm, mà lần lần mũi nó sưng lên đau lắm, đến chừng nó đã sưng vù lên rồi. Chủ nhà nói vợ mình đã nhẹ[6], ra mời ăn. Thì anh ta đau ăn không được, xin kiếu. (tr. 97)
Té ra có ý kiếm ăn, mà phải chịu đói mà về, vì đau quá, ăn không đặng[7].
69. Thầy trừ chồn.
Cái nhà kia hay nuôi gà nuôi vịt bán, mà bị chồn nó phá, nó ăn hết nhiều lắm. Gài bẫy, đánh nó hoài, mà cũng không trừ nó cho lại được.
Anh kia nghe vậy, tính gạt ăn của nó một bữa chơi. Nên tới nói: Nghe nói chồn nó phá gà phá vịt đây lắm. Có muốn trừ thì tôi trừ cho.
Chủ nhà nghe chịu liền. Vậy thầy mới biểu: Đâm bột cho nhỏ, đậu cà ra làm nhuân, cho đầy một cái thúng, đến mai tôi đến, tôi làm phép cho một bữa thì hết. Thầy xách chiết[8] tới, lấy bột, lấy đậu, đem ra nắn chồn lớn, chồn nhỏ, để nơi ghế. Lại nắn một con lớn hơn hết để giữa.
Rồi đứng dậy, biểu vợ chủ nhà ra lạy. Thầy đứng vòng tay đọc: chồn đèn, chồn cáo, láo đáo ăn gà, tao chẳng có tha, tao tra vào chiết.
Nói vừa rồi, bắt chồn bỏ bột vào chiết, bẻ lia bỏ vô túi. Con mẹ nọ thấy vậy tiếc, thấy thầy lấy đã nhiều quá, thì nóng ruột, thì lồm cồm chổi dậy, và lạy và la: chồn nào chồn nấy, tôi cũng lấy một chồn. Rồi ôm con chồn lớn chạy vô mất. (tr. 98)
70. Thợ may bị đập dùi đục trên đầu.
Anh thợ may kia có tiếng hay đi nhà nầy nhà kia may đồ cho người ta, mà đi thì có đem theo một đứa để mang gói. Tới đâu, chúng dọn cơm dọn nước cho ăn, rồi kêu thằng đi theo ăn, thì anh thợ biểu đừng[9], nói nó đã ăn rồi. Thằng ấy đi bữa nào về bữa ấy, về đói xơ mép[10].
Bữa kia hai thầy trò dắt nhau tới nhà ông huyện đi cắt đồ mà may. Thằng ôm gói, giận đã sẵn, tính báo[11] anh thợ may một bữa. Khi anh thợ cắt đồ rồi xong xả ra tiểu. Ở trong nầy thằng đi theo mới nói nhỏ với ông huyện rằng: Bẩm ông, thầy tôi có chứng điên: đồ ông là đồ lớn tiền ông phải giữ, hễ ngó thấy mằn mằn dưới chiếu bộ dớn dác, thì là tới cơn điên, bứt xé đồ đi hết.
Ông huyện hỏi: Mà lấy gì mà trừ nó? Nó bẩm: Dùi đục đập trên đầu một cái cho mạnh thì hết. Nói rồi, nó lấy kim nó giấu đi. Anh thợ vào thấy mất kim, hai tay gõ dưới chiếu, cho nó dậy[12], con mắt thì láo luân[13] ngó chăm chỉ mà kiếm.
Ông huyện tưởng đã tới cơn điên nó, thì cầm dùi đục, lại đập trên đầu một cái bộp: Mầy điên xé áo xé quần nghé! Nó nói: Bẩm ông, tôi không điên mà, tôi kiếm kim. Ậy! Ông huyện nói: (tr. 99) Thằng đi với mầy nó nói mầy điên. Nó[14] mới hỏi: Chớ sao mầy nói tao điên. Thằng kia nói: Còn không điên nữa? Tới đâu nói tôi ăn cơm rồi, làm tôi đói bụng chết cha đi, không điên làm sao?
[1] Cà xốc: Nghinh ngang, vô phép. Ở đây có nghĩa là ‘tự nhiên như thanh niên Hà nội’.
[2] Gai con mắt: xốn con mắt, thấy khó chịu vì người nào đó làm bậy/nói bậy..
[3] La lết: Chỗ người ta không thích mà cứ tới lại ở lâu chẳng có chuyện gì làm.’
[4] Láy [mắt]: nháy, nheo mắt ra dấu cho người kia ngầm hiểu phải làm gì.
[5] Máu cam: Máu chảy từ lỗ mũi.Thường trẻ con dễ bị chảy máu cam.
[6] Nhẹ (đã nhẹ bịnh): Bớt bịnh, sắp lành.
[7] Cũng là lời giải thích câu chuyện.
[8] Chiết: Cái giỏ xách, thường làm bằng gỗ.
[9] Biểu đừng: Kêu đừng làm chuyện gì đó. Anh thợ may biểu người nhà đừng cho tên thợ phụ ăn cơm. Ca Dao: Anh ôm em mà em cứ biểu đừng. Nay em mai mối mình thành người dưng mất rồi.
[10] Đói xơ mép: Đói tới nỗi miệng khô, mép muốn lỡ. Như đói lũi
[11] Báo: Báo hại, trả thù.
[12] Dậy (cho nó dậy): Lòi ra, làm cho lòi ra.
[13] Láo luân: HTC không có từ láo luân mà có từ láo liên: Con mắt hay dòm hay ngó, dòm nghiêng dòm ngữa.
[14] Nó đây chỉ người thợ may. Văn xưa không rõ rang kiểu nầy là thường.
.