Hôm nay,  

Chú Giải Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký (60-63)

26/11/201600:01:00(Xem: 3986)

 

Chú Giải

Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký

 

Nguyễn Văn Sâm
   

 

(Chuyện 60-63. Sẽ đăng tiếp)

 

Quyển Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký là quyển sách bán chạy nhứt của nhà văn nầy. In tới lui nhiều lần, năm 1914 đã in tới ngàn thứ chín. Những lần in không đề tái bản lần thứ mấy và in bao nhiêu thì phải nói là cơ man.

Tại sao quyển truyện mỏng nầy lại có sức hấp dẫn như vậy? chính là nhờ ông Trương khi viết đã đưa ra hai mục tiêu và đã làm gần như trọn vẹn

1. Giáo dục về luân lý. Người đọc cẩnthận sẽ thấy những bài học tốt cho cách ở đời, cách xử thế, ứng xử trong trạng huống cần thiết, đề phòng kẻ xấu, chớ cả tin..

2. Dùng tiếng Annam (Việt Nam) ròng. Trong toàn quyển chuyện không sự kiện làm văn chương, mặc dầu điều nầy không hẵn là xấu, mà chỉ có sự sử dụng tiếng Việt thường nhựt, với những từ ngữ của người bình dân. Người đọc đón nhận cũng vì lẽ đó.

Ngoài ra vì tác giả khéo léo cho thấy sinh hoạt của dân chúng có thể nói là cuối thế kỷ 19 nên đây là nguồn tư liệu dồi dào về những chi tiết của cuộc sống dân ta mà gần như ngày nay không thể thấy (ăn ong, ăn bánh lớ, cái chày mổ, sư làm đám, hầm bắt cọp, bắt chồn, tục mai dong, tục ở rể…).

Sách viết hơn trăm năm trước, bằng chữ của dân miền cực Nam nên chắc chắn là khó hiểu với phần đông người đọc hiện giờ. Sự chú giải những từ nầy là cần thiết nên quyển sách Chú Giải Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký có lý do để ra đời.

Victorville, CA, tháng 11, 2016

 

blank

60. Con gái cầu chồng đại vương.

 

     Có một con kia[1] nhan sắc đẹp đẽ, mà trong ý[2] ước trông cho được một người sang trọng đứng vì vương vì tướng. Cho nên thường bữa thường ra chợ mua nhang mua đèn, đem vô chùa vái cùng phật bà, xin xui khiến cho mình đặng như tình mình sở nguyện[3] vậy. (tr. 84)

     Người bán nhang còn nhỏ tuổi, thấy cô ấy mỗi bữa mỗi ra mua nhang, thì lấy làm lạ: quảy giỗ[4] thì cũng có khi[5], có đâu mà mỗi ngày, ngày nào như ngày nấy. Đánh mò[6] theo coi, thấy vô chùa vái xin chồng sang. Anh ta dòm hiểu được ý, thì bữa ấy mượn người khác bán thế cho mình. Liệu vừa chừng[7] cô ấy vô chùa, anh ta vô núp sau tượng phật. Cô vào thắp nhang, đốt đèn, ngồi lạy xin một hai cho được chồng làm vua làm tướng mà thôi. Chú chàng[8] ở sau ứng tiếng lên nói: Con muốn làm vậy mà không nên, con phải lấy thằng bán nhang ngoài chợ. Số con làm vậy đó.

     Cô ta ra về, vưng theo lời phật bà dạy ra tìm người bán nhang. Hẹn hò ngày kia buổi nọ[9], thì ra chỗ nọ cho nó đem về nhà. Vậy nó bỏ con ấy vào cái bao không, bỏ một đầu thì cô nọ, một đầu thì nhang, gánh thẳng về nhà.  Đàng về nhà thì phải đi ngang qua cái rừng.

     Bữa ấy có Thái tử đông cung đi săn trong ấy. Anh ta sợ gặp quân gia quan quyền, có khi họ hỏi han khó lòng, mới đứng ngừng lại. Quân gia đâu vừa đi trợt tới[10]. Nó thấy vậy để gánh dẹp lại một bên đường, chạy tuốt vào bụi trốn trỏng[11]. Quân thấy gánh, mà không có người, thì lại lục mà coi, mở cái bao ra thấy một nàng xinh tốt lắm, nằm khoanh trong ấy, thì dẫn lại cho Thái tử xem. (tr. 85)

     Đức ông mới hỏi tự sự trước sau. Thì cô ấy gởi rõ duyên cớ đầu đuôi gốc ngọn lại cho đức ông nghe. Sẵn có săn được một con cọp, thì Thái tử dạy đem con cọp bỏ vào cái bao cột lại, để lại trong gánh im lìm như trước. Còn cô ấy Thái tử đem về làm vợ.

     Anh kia núp trong bụi nghe coi đã vắng tiếng[12], thì đã biết họ đã đi rồi, thì ra, lại rờ cái bao thăm coi vợ mình còn hay không. Bóp coi thấy còn, thì kê vai gánh về nhà.

     Cha mẹ anh em ra mừng, hỏi chớ giống gì trong cái bao nầy vậy: thì nó nói nộ[13] rằng: Cọp đó chớ gì? Cất nhang đồ rồi, nó rinh các bao ấy vào phòng, đóng cửa lại, rồi lại mở miệng bao. Được có đem vợ ra. Chẳng ngờ vợ đâu chẳng thấy, cọp ở trỏng nhảy ra, bẻ cổ anh ta chết tươi đi tức thì.

    Bởi thiên lý vị nhiên, nên nghịch thiên giả tử[14].

 

 

61. Ông huyện thanh liêm cả đời, vì một lời nói mất đức thanh liêm.

 

     Ông huyện kia đắc chỉ[15] ra ngồi huyện nơi kia. Mà ông ấy là người thanh liêm lắm, cho nên không dụng lễ mễ của ai, lấy một đồng, (tr. 86) đem cửa trước cũng không xong, đem cửa sau cũng không lọt. Bà huyện thấy tính chồng không có ưa, thì cũng không dám lãnh lấy của ai vật gì.

     Có cái làng kia nhờ ông huyện lắm, mà đền ơn nghĩa không được. Hễ đem tới giống gì, giống gì bất kỳ, vàng bạc tiền của gì, ổng cũng không thèm gì hết, tức mình mới lo đem đút cho bà huyện. Mà bả cũng rằng rằng quyết một[16], một hai không dám lãnh: Ngài tôi thanh liêm, tính không có chịu, tôi mà có lấy sau nữa rầy tôi. Làng càng nài, xin bà cất, nhậm lấy lễ, biểu trẻ thâu cho[17]. Bã thấy làng năn nỉ, cầm lòng không đậu, thì bày rằng: Ông huyện tôi, ngài là tuổi tí, vậy làng có bụng làm vậy thì thôi, làng có muốn, thì về đúc một con chuột bằng bạc đem tới đây, để tôi chịu khó, tôi nói giùm cho, họa may có được chăng.

     Vậy làng nghe lời, về đúc một con chuột cống đặc ruột bằng bạc ròng, đem vô. Bà huyện lãnh lấy cất đi, không dám nói với chồng hay.

     Đến sau khi ông huyện thôi làm quan, về hưu trí thì nghèo, nhiều khi túng ngặt thiếu trước thiếu sau. Mà bà huyện thì lấy con chuột, chặt lần ra mà bán, lấy tiền mua sắm ăn sắm mặc.

     Bữa kia ông huyện nói với mụ rằng: Bây giờ ta túng xây túng xài hơn thuở trước khi ta (tr. 87) còn làm quan lắm, mà mụ lấy đâu mua ăn mua mặc làm vậy? Thì bà huyện mới học lại chuyện làng đem của đền ơn, mà không lấy: Thuở ông ngồi huyện, làng kia mắc ơn ông, mà tới năn nỉ đem lễ vật, mà tôi không chịu, họ nài quá, tôi mới bày cho họ về đúc con chuột bạc đem dưng, vì ông là tuổi tí. Bây giờ nhờ con chuột ấy, tôi chặt một khi một ít bán đi mà tiêu dụng. Thì ông huyện mới tiếc mới nói rằng: Vậy sao bà không có nói là tuổi sửu, cho họ đúc con trâu? Phải nói vậy, bây giờ chẳng khá khiển[18] đi à?

 

62. Mưu trí hơn là sức mạnh.

 

     Trong thú vật thì con cọp làm lớn, có oai quờn[19], hễ nó đi tới đâu, thì con nào cũng đều sợ nó. Có một con chồn cáo hay phản nghịch, kiêu ngạo, lại dễ ngươi, gặp cọp thì nhún trề[20] trở đít cho nó[21], rồi chạy tách đi mất. Cọp giận sao nó có dám khinh dị[22] mình làm vậy.

     Bữa nọ chồn cáo nằm ngủ, cọp đi tới gặp chụp bắt lấy. Muốn ăn thịt đi, mới mắng chồn ba điều, rồi có trị tội nó: Mầy ỷ mầy có tài chạy hay, nên mầy khinh dể tao ghe phen[23]. Bây giờ tới số mầy rồi, tao nhai xương mầy, tao chẳng tha. (tr. 88)

Con chồn mới nói với cọp rằng: Mầy đừng làm phi ngãi, mà tao biểu các muôn thú hại mầy, mà khốn giờ[24]. Cọp mới nói: Mầy ấy là giống gì[25], mà làm điều ấy được, mầy nói tao nghe coi thử? Chồn mới nói lại như vầy: Tao có phép mà sai khiến đặng, vì Ngọc hoàng có phong cho tao làm vua quản trị hết thảy, mầy cũng phải kính sợ tao nữa. Cọp nói: Tao không tin ngay, có lẽ nào mầy hèn hạ làm vậy, mà ai đi cho mầy chức quờn sang trọng thể ấy, mầy nói láo mà thôi. Chồn cáo lại gắng điều nầy nữa: Như mầy không tin, thì mầy để tao leo trên lưng mầy tao cỡi, mà đi dạo các nẻo đường rừng mà coi, thì mầy biết. Chớ tao nói tay hai với mầy cũng không cùng. Cọp chịu: Ừ, mầy đã quả quyết làm vậy, thì mầy leo lên, tao đem mầy đi, nếu không có thiệt như lời, thì tao sẽ nhai xương mầy cho đáng tội.

Khi ấy chồn lên cỡi, đi tới đâu tới đó, thì con chi cũng đều thất kinh chạy hết, mà con cọp dại tưởng chúng nó sợ con chồn, chớ không dè chúng nó sợ mình, cho nên trở lại xin lỗi với con chồn cáo. Vưng phục đầu lụy[26] con chồn. Cọp bái tạ đi, thì chồn dặn biểu cọp: Từ nầy về sau mầy đừng dễ ngươi[27] tao nữa, mới một lần, thì tao tha cho đi, mà sau có làm vậy, thì tao không dung[28] nữa đó, chẳng chơi đâu.

Chuyện nầy nói xâm kẻ tiểu nhơn hèn hạ bất tài, mà hay nương thế kẻ có oai quờn mà (tr. 89) húng hiếp người bình dân. Lại nói người có quờn thế lớn hùng hào, mà lại hữu dõng vô mưu, để cho kẻ dưới mình gạt được.

 

 

63. Thằng quáng manh[29] đi làm rể.

 

Thằng cha kia quáng manh đi hỏi vợ. Con mắt thì tử tế lành lẽ như thường, mà có tật quáng. Tới nhà làm rể. Bữa ấy ra đi cày ruộng, đánh mò[30] theo chúng đi trước, ra làm được một buổi. Trưa lại, tới buổi thả cày[31], chúng lật đật về ăn. Anh ta theo không kịp, đi sau lịch ịch[32] sao sụp xuống dưới giếng loạn[33], không biết đường nào mà lên.

Một chặp lâu lâu ở nhà bà mẹ vợ nói: Ủa! Thằng rể nó ham làm[34] thì thôi! Trẻ, chạy ra kêu nó về ăn cơm. Trẻ chạy đi kiếm, và đi và lằm bằm! Cực thì thôi!... Nó ở dưới nghe, leo lên, đi theo về nhà.

Ngồi lại mâm ăn, bà mẹ vợ ngồi gần đó, chỉ món nọ món kia cho nó ăn. Nó khôn cứ lừa lừa theo lời mẹ vợ mà gắp trúng, không biết là quáng[35]. Ở đâu con chó hỗn, nó ăn trong mâm. Bà mẹ nói: Sao con không có đánh chó, để nó ăn vô làm vậy? Thì nó thưa: Thưa mẹ, chớ đánh chó kiêng chủ (tr. 90) nhà[36], tôi không dám đánh. Mẹ vợ nó nói: không có hề gì, cái dùi đục[37] đây, nó có lại nó hỗn, thì đánh đại nó đi, đừng có sợ gì.

     Bà mẹ thấy nó nết na, nhát không dám ăn không dám gắp, thì lại làm tài khôn[38], gắp đồ bỏ vô chén nó cho nó ăn. Nó nghe rọc rạch[39], nó tưởng là con chó lại ăn hỗn, nó đập cho một cái dùi đục chảy máu đầu ra.

 



[1] Con kia: Cô gái nọ.

[2] Trong ý: Trong lòng, ý muốn, ước ao.

[3] Như tình sở nguyện: Được như ý muốn.

[4] Quảy giỗ: Cúng kiến, giỗ chạp.

[5] Cũng có khi: Ở đây là có ngày tháng nhứt định.

[6] Đánh mò: Rình đi theo dấu. HTC, Đánh mò: Lò mò đi theo. Bắt mò. Coi dấu mà theo, men theo, lần theo sau, rình mò cho biết ở đâu.

[7] Liệu vừa chừng: Canh vừa lúc…

[8] Chú chàng: Anh chàng. Va, hắn.

[9] Ngày kia buổi nọ: Lúc nào đó.

[10] Đi trợt tới: Tình cờ đi tới. Nay nói: đi trờ tới, đi chợt tới.

[11] Trốn trỏng: Nay nói trốn ở trỏng, trốn trong trỏng, trốn trong đó. chữ ở đã bị nuốt đi trogn trường hợp nầy.

[12] Nghe đã vắng tiếng: Nghe không còn tiếng người, nghe êm êm.

[13] Nộ: Nhát, nói cho người ta sợ. Nay nói nồ.

[14] Bởi thiên lý vị nhiên, nên nghịch thiên giả tử: Vì thiên lý là như thế nên nghịch với thiên lý là chết. Chuyện nầy có nhiều điểm vô lý…

[15] Đắc chỉ: Được lịnh.

[16] Quyết một: Nhứt định là… Nhứt quyết rằng…

[17] Biểu trẻ thâu cho: Khiến người trong nhà nhận lấy. Đồng ý nhận của biếu xén nhung không đưa tay nhận mà biểu người nhà ra nhận.

[18] Khá khiển: Giàu có. Như khá lung, tức khá lắm.

[19] Oai quờn: Oai quyền.

[20] Nhún trề: Chê bay, nói lời bất kính, cười ngạo bằng cách khi nói tới người mình muốn chê thì trề môi mím miệng…

[21] Trở đít cho nó: Đưa đít trước mặt ai. Tỏ vẽ khi dễ.

[22] Khinh dị: Khi dễ, không coi ra gì. HTC nhắc tới chữ dễ duôi, quá hay!

[23] Ghe phen: Nhiều lần. Ghe: nhiều.

[24] Khốn giờ: Bị hại bây giờ. Tiếng bây trong văn nói đã bị lướt nên khó nghe hay đã biến mất.

[25] Giống gì: Thứ gì, ‘thớ’ gì?

[26] Vưng phục đầu lụy: chịu lịnh sai khiến, chịu dưới quyền.

[27] Dễ ngươi: Lờn mặt, coi thường.

[28] Không dung: Chẳng tha thứ, chẳng dung tha. Bắt tội.

[29] Quáng manh: Mắt bị bịnh nhìn không rõ, chỉ thấy lờ mờ. Còn gọi là quáng mỏng.

[30] Đánh mò: Lò mò đi theo, theo dấu mà lần theo.

[31] Thả cày: Buông cày, nghỉ cày.

[32] Lịch ịch (đi): Đi bộ nặng nề. HTC, Lịch ịch: Bộ bầng xách nặng nề, đi không muốn nổi, (lệch ệch).

[33] Giếng loạn: Giếng cạn không xài nữa. HTC, Giếng loạn: Giếng bỏ hoang, bùn đất lấp xuống

[34] Ham làm: Siêng năng.

[35] Quáng:Quáng manh, không thấy rõ.

[36] Đánh chó kiêng chủ nhà: thành ngữ nói rằng nên nễ mặt người nhà kẻ mà ta định hiếp đáp.

[37] Dùi đục: HTC, Dùi đục: Cán đục, đồ đóng nhỏ. Khúc cây vắn vắn để mà đóng vỗ cái đục. Thứ đồ chẳng có giá trị gì: Dùi đục chắm mắm nêm, Thành ngữ. Lời nói sẵng,nghe chướng tai.

[38] Làm tài khôn: Ra bộ lanh, ra bộ biết chuyện. thường kẻ làm tài không không làm nên sự việc.

[39] Rọc rạch: Tiếng động nho nhỏ.



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.