(Lời tâm tình: Bài viết về “Sử Việt” chỉ khái quát, không đi sâu từng chi tiết của mỗi nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có chỉ là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung đã biên soạn. Trang Sử Việt luôn mong mỏi nhúm nhen tình tự dân tộc, niềm yêu thương quê hương và giữ gìn Việt ngữ cùng văn hóa Việt. Trang Sử Việt đăng trên Vietbao Online thứ Ba và thứ Sáu hằng tuần).
________________
NGUYỄN KHUYẾN
(1835 - 1909)
Nguyễn Khuyến còn tên là Nguyễn Thắng, quê làng Yên Đỗ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Hiệu Quế Sơn, người ta thường gọi ông là Yên Đỗ. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là người thông minh, hiếu học. Năm 1864, ông đỗ đầu Cử nhân.
Năm 1865, ông thi Hội bị hỏng, ở lại kinh đô học trường Quốc tử giám, đến năm 1871, ông đỗ đầu kỳ thi Hội rồi đỗ đầu kỳ thi Đình, nên người ta gọi ông là Tam nguyên Yên Đỗ. Năm 1873, ông làm Đốc học, rồi thăng Án sát tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877, ông làm Bố chính tỉnh Quảng Ngãi.
Năm 1878, triều đình triệu ông về kinh giữ chức Toản tu Quốc sử quán. Nguyễn Khuyến làm quan nổi tiếng thanh liêm, chính trực. Ông thấy quân Pháp tấn công chiếm Nam kỳ, rồi tấn công Bắc kỳ và đang uy hiếp kinh đô Huế, xét thấy không giúp gì được cho đất nước nên buồn bã xin từ quan về làng Yên Đỗ, sống đạm bạc trong cảnh thanh bần.
Ông thấy nước nhà bị giặc Pháp xâm chiếm, buồn đời, hận mình không đủ sức giữ gìn đất nước, trong bài “Tự Trào”. Ông tự cười cợt chính mình, trong nỗi ngậm ngùi, xót xa:
Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang
Chẳng gầy chẳng béo cũng làng nhàng!
Cờ đang nửa cuộc không còn nước
Bạc đánh ba quan đã chạy làng!
Há miệng nói ra gàn bát sách
Mềm môi chén mãi tít cung thang
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ?
Thế cũng bia xanh cũng lọng vàng
Ông để lại các tác phẩm: Quế Sơn thi tập; Yên Đỗ thi tập và những câu đối; Hát ả đào; Văn tế... Các tác phẩm của ông có khi viết bằng chữ Nho tự dịch ra chữ Nôm hay ngược lại, đến nay đã sưu tập được khoảng 800 bài đủ các thể loại.
*- Thiết nghĩ: Nhà thơ Nguyễn Khuyến sử dụng cả chữ Hán và chữ Nôm, ông đã làm nhiều thể loại: Hát nói, cổ phong, lục bát, văn sách, văn tế, câu đối... Tuy nhiên, thể thơ thất ngôn bát cú được ông sáng tác nhiều hơn hết.
Thơ trào phúng của Yên Đỗ nhẹ nhàng không táo bạo như thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương, không thẳng thừng như thơ trào phúng của Trần Tế Xương. Thơ trào phúng của Yên Đỗ dù qua lăng kính trào lộng nhưng sâu sắc, kín đáo. Thi sĩ Yên Đỗ châm biếm bọn quan tham, bọn đạo đức giả rất độc đáo vừa hóm hỉnh vừa thâm thúy. Thi sĩ Yên Đỗ là bậc thầy về thể loại thơ trào lộng khi châm biếm những thói hư, tật xấu của người đời. Bài thơ “Tiến sĩ giấy” phản ánh xã hội đương thời, chê trách cả phong kiến lẫn thực dân:
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Thơ trữ tình của thi sĩ Yên Đỗ dạt dào cảm xúc, lòng ông chứa chan tình tự dân tộc và quê hương. Nỗi niềm của ông thiết tha phong cảnh ở thôn quê và ngậm ngùi xót thương người dân nghèo bị cơ cực dưới thời thực dân Pháp. Tâm tư ấy đã thổ lộ trong bài thơ “Chốn quê” rất chân thành:
Năm nay cày cấy vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ
Nửa công đứa ở nửa thuê bò.
Thơ tả cảnh của thi sĩ Yên Đỗ cảm xúc cảnh nông thôn làng nước thật đậm đà. Đặc biệt cảnh mùa thu lưu luyến rất thiết tha, cảnh thu trong thơ ông không ràng buộc bởi những ước lệ mà êm ái gần gũi. Ông đã gởi gấm tâm tư trong các bài thơ: Thu ẩm, Thu điếu, Thu vịnh... biểu đạt trọn vẹn cái nét độc đáo của cảnh thu, như bài thơ “Thu điếu”:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo...
Cảm niệm: Nguyễn Khuyến
Tam nguyên Yên Đỗ, mến thiên nhiên
Non nước điêu linh, luống muộn phiền
Hận Pháp xâm lăng, lòng khắc khoải
Thương quê thao thức, khó khăn yên!
Nguyễn Lộc Yên
.
.
Gửi ý kiến của bạn