Hôm nay,  

San Jose: 200 khách dự CD & Tập Nhạc Thiền Ca Hoa Bay Khắp Trời

03/10/201600:04:00(Xem: 4109)

San Jose: 200 khách dự buổi ra mắt CD & Tập Nhạc Thiền Ca Hoa Bay Khắp Trời
   

SAN JOSE (Việt Báo , với hình Lê Bình, Mạc Phương Đình, Đoàn Công Cẩn, Bình Sa) –

Buổi ra mắt CD Thiền Ca Hoa Bay Khắp Trời -- nhạc Trần Chí Phúc phổ thơ Phan Tấn Hải -- đã thành công hoàn mãn hôm thứ Bảy 24/9/2016, tại Hội trường Franklin McKinley School District, thành phố San Jose, với tham dự khoảng 200 người hầu hết là giới trí thức văn nghệ sĩ, các cư sĩ và những người yêu thích thơ nhạc.

Hòa Thượng Thích Tịnh Từ, Viện chủ Tu Viện Kim Sơn, đã ban đạo từ, tán thán công đức thực hiện CD thơ nhạc, nói rằng những giáo lý khi đưa vào thơ và nhạc sẽ dễ nhớ và ghi sâu vào lòng người hơn, vì tụng kinh cả giờ có khi không nhớ, nhưng chỉ nghe 1 câu nhạc là nhớ ngay. Hòa Thượng cũng hát, ngâm một ca khúc từ sáng tác của Sơn Cư (bút hiệu của chính Hòa Thượng) để cùng chia vui trong ngày hát Thiền Ca.
.

blank

Hòa Thượng Thích Tịnh Từ (giữa) ban đạo từ, và nhạc sĩ Trần Chí Phúc (phải) và nhà thơ Phan Tấn Hải.

.

Hòa Thượng Thích Tịnh Từ đi cùng một phái đoàn tăng ni đã ngồi suốt buổi Thiền Ca. Đó là một hy hữu vì Hòa Thượng rất bận Phật sự những ngày cuối tuần ở Tu Viện Kim Sơn  ở Watsonville.

Trong những người lái xe từ xa tới còn có một số Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử, trong đó có Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ từ Sacramento.
.

blank

Từ phải: GS Vũ Thế Ngọc, nghị viên Nguyễn Tâm, GS Nguyễn Tuấn Khanh, Ông Nguyễn Mộng Hùng, 1 khách tham dự, ông Lê Minh Hải

.

Lễ Chào Cờ trang nghiêm, khai mạc buổi Thiền Ca. Nhạc sĩ Trần Chí Phúc giới thiệu MC Mai Phi Long. Chương trình xen kẽ giữa các ca khúc và những lời phát biểu.

Giới nghệ sĩ từ Quận Cam  lái xe lên tham dự có ca sĩ/MC Mộng Lan cùng một số thân hữu lên San Jose để cổ võ cho CD Thiền Ca Hoa Bay KHắp Trời, cũng như có Huynh trưởng GĐPT Trần Triết, nhà thơ Nguyễn Thanh Huy (Phụ tá Tổng vụ trưởng TV Pháp Chế GHPGVNTN Liên Châu). Đặc biệt MC Mai Phi Long lái xe đưa toàn gia lên tham dự. Cũng như nhiếp ảnh gia Đoàn Công Cẩn từ Nam Cali lái xe lên San Jose, để thực hiện những bức hình nghệ thuật.
.

blank

Từ trái: nghị viên Nguyễn Tâm, nhà thơ Phan Tấn Hải, cựu Phó thị trưởng Madison Nguyễn, nhạc sĩ Trần Chí Phúc

.

Tham dự cũng có nhiều trí thức văn nghệ sĩ nổi tiếng như Họa sĩ Trương Thị Thịnh, họa sĩ Quế Hương. Hình ảnh vị nữ họa sĩ họ Trương 90 tuổi với sức đã yếu, tới ngồi nghe trọn chương trình Thiền ca cũng là hy hữu.
.

blank

Từ trái: MC Mai Phi Long, nhà báo Nguyễn Xuân Nam, bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi

.

Nhiều vị khác tham dự còn có học giả Vũ Thế Ngọc, giáo sư đại học San Jose State Phan Công Chánh, giáo sư Anh Văn Trần Khánh,danh thủ bóng bàn Trần Cảnh Được, cựu dân biểu Nguyễn Công Hoan, nhà văn Đào Văn Bình, nhà báo Nguyễn Xuân Nam, nhà báo Nguyên Trung & Cao Ánh Nguyệt, nhà thơ Mạc Phương Đình, nhà thơ Huệ Thu, nhà thơ Ngọc Bích, nhà thơ Ngọc An, nghệ sĩ ngâm thơ Khánh Hà, nghệ sĩ Kiều Loan, nhạc sĩ Ngọc Loan, nhạc sĩ Thảo Trang, nhạc sĩ Đặng Xuân Thìn,ca sĩ Mai Hân,  nhà thơ Phan Nhật Tân, nhà văn Biện Thị Thanh Liêm, học giả Trần Việt Long, Nghị viên Nguyễn Tâm, cựu Phó Thị Trưởng Madison Nguyễn, Cựu Trung tá Nguyễn Mộng Hùng, BS Nguyễn Xuân Ngãi, BS Lê Phương Thúy, bác sĩ Trần Diệu Thanh, nha sĩ Nguyễn Văn Phúc, nhà thơ Alisa Hà Vũ, họa sĩ Bách Phi, LS Nguyễn Công&phu nhân, Ông Lê Văn Đức, Ông Tony Đinh, Ông Lê Minh Hải, LS Henry Liêm Nguyễn, nhà báo Thư Sinh, nhà báo Phạm Bằng Tường, Ông Thái Quốc Hùng, chủ bút Phạm Phú Nam, Ông Hoàng Thưởng, GSTS Nguyễn Hồng Dũng, Ông Phạm Nguyên Khôi, Ông Bà Mai Xuân Châu Cựu HT/GĐPT, ông Võ Minh Vinh Hội trưởng đồng hương Phú Yên, đạo hữu Không Lạc …và các ký giả phóng viên Truyền hình Báo chí Việt ngữ…
.

blank

Hình phải, từ phải: họa sĩ Trương thị Thịnh, nhạc sĩ Trần Chí Phúc. Hình trái, từ trái:  cựu dân biểu Nguyễn Công Hoan, thi sĩ Phan Tấn Hải.

.

Nghị viên Nguyễn Tâm đã phát biểu, ngợi ca nghệ thuật: “Buổi sinh hoạt ra mắt Thiền Ca, Thi Ca hôm nay đã đưa nhiều người, nhiều khuynh hướng khác nhau, xa nhau về địa lý… đã ngồi lại bên nhau… Thơ đi vào lòng người. Thơ đi vào lịch sử…” Ông đã nói đến bản quốc ca Hoa Kỳ là một bài thơ…"Defence of Fort M'Henry", là một bài thơ viết vào ngày September 14, 1814, do một luật sư trẻ tuổi (35 tuổi) tên Francis Scott Key.


Nhà báo Lê Bình ghi nhận rằng Bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi, trong phần phát biểu cho biết “đã quen biết NS Trần Chí Phúc hơn 20 năm, biết anh ta chuyên sáng tác những bài ca quê hương, tình tự của người tị nạn… Hôm nay anh Phúc chuyển sang một nhịp điệu mới, Thiền Ca…” BS Ngãi chúc mừng và mong sẽ còn được nghe nhiều ca khúc thể loại nầy.

Nhà báo Nguyễn Xuân Nam đặc biệt kể về 2 Phật Tử -- trong đó, ông đã cùng với huynh trưởng GĐPT Trần Triết (tức nhà báo Uyên Nguyên) từ hải ngoại đã thực hiện mạng liên lạc toàn cầu giữa các nhà hoạt động Phật Giáo, khi gần như thức trắng trong những ngày đêm Tu Viện Bát Nhã ở Lâm Đồng  bị công an và côn đồ tấn công năm 2008.
.

blank

Từ phải: nhạc sĩ Trần Chí Phúc, danh thủ bóng bàn Trần Cảnh Được, bác sĩ Trần Diệu Thanh, nhà thơ Phan Tấn Hải.

.

Tiếp theo cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải trình bày một bài ngắn với đề tài Thiền Tông và Thi Ca. Bài này được ghi lại cuối bản tin này.

Xen kẽ trong chương trình là phần văn nghệ, trình bày các ca khúc Thiền, do các ca sĩ: Hồng Nga (Dâng Hoa Cúng Phật) , Nguyên Đán  (Quán Thế Âm), Huy An& Thu Nga (Lắng Nghe Hơi Thở), Phương Thúy (Mời Em Vào Cõi Bất Sinh), Thu Nga (Niệm Phật),  Diệu Linh  (Hoa Bay Khắp Trời),. Chương trình diễn ra tuyệt hảo với nhạc đệm do nhạc sĩ La Vân keyboard , âm thanh Huỳnh Phú.
.

blank

Từ phải: Hồng Nga, Phương Thúy, Diệu Linh, Trần Chí Phúc
.

blank

Hợp ca Phật Giáo Việt Nam Lên Đường (Trần Chí Phúc, Hồng Nga, Nguyên Đán, Mai Phi Long, Diệu Linh, Thu Nga, Phương Thúy, Huy An)

.

Điểm đặc biệt là Thiền Ca trong truyền thống VN cũng có nghĩa là giữ nước, giữ bờ cõi, chống ngoại xâm. Đó là tinh thần trình bày khi các ca sĩ hát hợp ca bản Phật Giáo Việt Nam Lên Đường.

Cũng đặc biệt là khi ca sĩ Thanh Vũ hát bản "Bài Ngợi Ca Việt Nam" một sáng tác mới của nhạc sĩ Trần Chí Phúc, lời nhạc nghe âm vang như dòng Sông Bạch Đằng cuồn cuộn chảy, khi hòa vào Biển Đông để làm trường thành chống quân Phương Bắc.
.

blank
Huynh trưởng GĐPT Bạch Xuân Phẻ (phải), HT Thích Tịnh Từ (đưa tay chúc lành)
.

blank

.
Nhà báo Lê Bình nhận định:

"Lần đầu tiên tại San Jose có một buổi sinh hoạt văn hóa, ra mắt CD nhạc và nói chuyện Thiền, rất thành công với số lượng quan khách tham dự. Nhưng đặc biệt nhất là mọi người đã đến đúng giờ và ngồi cho đến hết buổi sinh hoạt. Không khí buổi sinh hoạt đẫm chất “thiền”. Người nghe và người nói như hòa quyện vào nhau, cùng cảm thông và chia xẻ. Thân hữu và tác giả đã chụp hình chung kỷ niệm, ký tên vào tấm bảng lưu niệm. Như NV Nguyễn Tâm nói “Hôm nay thiền và thi ca đã đưa nhiều người, nhiều khuynh hướng khác nhau cùng ngồi chung với nhau.” Và cũng có thể thêm “Thiền và Thi Ca đã đem các tâm hồn vào một. Và mỗi một là cái riêng của từng cá nhân. Tất cả là một, Một là tất cả.”..."
.

blank

Từ trái: nhạc sĩ La Vân, nghệ sĩ Mai Hân, Trần Chí Phúc, bà Nguyễn Đình Sơn, ca sĩ Thanh Vũ.

.

Năm ngoái, chiều thứ bảy 14-11-2015 tại Quận Cam đã ra mắt CD và Tập Nhạc Hoa Bay Khắp Trời thành công với 200 khách tham dự và tại San Jose thứ bảy 24-9-2016 cũng kết quả tương tự, cũng là duyên lành hai tác giả với dòng thơ nhạc Thiền.

blank

Hình lưu niệm
  

Quí vị muốn thưởng thức CD và Tập nhạc Hoa Bay Khắp Trời hoặc muốn có CD nhạc đệm các bài hát này , xin liên lạc email : chiphuctran@yahoo.com


blank

Từ trái: Huynh Trưởng GĐPT Triết Trần, nhà thơ Lưu Hy Lạc, cựu Phó Thị Trưởng Madison Nguyễn, cư sĩ Trần Việt Long, nhà báo Lê Bình, phóng viên SBTN Vũ Nhân

.
oOo
  
Sau đây là bài soạn trước, với đề tài “Thiền Tông và Thi Ca”
của nhà thơ Nguyên Giác Phan Tấn Hải.

(LGT. Bài chuẩn bị cho buổi ra mắt CD và tập nhạc Thiền ca Hoa Bay Khắp Trời -- nhạc Trần Chí Phúc phổ thơ Phan Tấn Hải -- tại hội trường Franklin McKinley School District, 645 Wool Creek Dr., San Jose, CA 95112, chiều Thứ Bảy 24-9-2016Bài nói chuyện thực tế sẽ rút ngắn từ bài viết này, để phù hợp thời lượng.)


Kính bạchchư Tôn Đức Tăng Ni

Kính thưa quý vị dân cử, quý bạn văn nghệ sĩ, quý bạn thiện hữu tri thức, và tất cả khán thính giả

Hôm nay, tôi có duyên lành nói chuyện về đề tài Thiền Tông và Thi Ca. Bài này được soạn trước, vì tôi không thể ứng khẩu, khi lòng đầy cảm xúc bước vào hội trường này. Hôm nay là lần đầu tiên tôi đứng trong một hội trường để trình bày về Thiền Tông, một đề tài rất phức tạp nhưng cũng cực kỳ thơ mộng. Trước giờ, tôi luôn luôn là người vô hình, ẩn mình sau những dòng chữ và trang giấy. Và bây giờ lần đầu ra đứng nói trước công chúng, tuy là sở học bất toàn, tôi sẽ cố gắng trình bày cốt tủy của Thiền Tông, hy vọng bằng những lời rất đơn giản, sao cho dễ hiểu, và thực dụng. Và chúng ta có thể ứng dụng ngay tức khắc, trong buổi này.


Hôm nay, đứng trước tất cả quý vị, quý bạn,  tôi cũng tiết lộ một bí mật sâu thẳm trong tim mình. Trước khi nói về Thiền Tông và Thi Ca, tôi xin nói về mối tình đầu của tôi. Vâng, mối tình đầu cực kỳ say đắm. Khi từ đảo Galang tới, khi toàn thân còn ướt sũng nước biển Indonesia, bước chân lên một thị trấn nhỏ ở tiểu bang Virginia vào giữa năm 1984, vài ngày sau, nhờ bà dì chở ra xem các tiệm sách báo, đọc qua một lượt, tôi thấy ngay rằng mình phải dọn về San Jose. Truyện ngắn đầu tiên viết tại Hoa Kỳ, tôi gửi về tạp chí Nhân Văn ở San Jose. Hồi đó là viết bằng bút nguyên tử trên giấy, bỏ vào phong bì, dán tem và gửi qua bưu điện. Nhận được thư trả lời của nhà văn Tưởng Năng Tiến  thay mặt ban biên tập Nhân Văn, lòng tôi vui như mở hội, nghĩ rằng mình làm được chút gì cho đồng bào. Thế đó, San Jose là mối tình đầu của tôi. Từ bờ Đông, nhìn về bờ Tây Hoa Kỳ, theo dõi tin tức về cộng đồng mình, tôi nghĩ rằng tim mình đã đập theo nhịp của San Jose. Nhiều năm sau, tôi về Quận Cam cư ngụ, nhưng hình ảnh đẹp trong tim tôi vẫn là nơi đây, San Jose. Và bây giờ, hình ảnh các bạn vẫn đẹp rực rỡ trong tôi. Bạn văn, bạn một thời học chung ở Đại Học Văn Khoa và ở Chùa Tây Tạng Bình Dương, nơi đây có nhà thơ Phan Nhật Tân, nhà văn Biện Thị Thanh Liêm… bạn của Sài Gòn một thời gian nan như Trần Việt Long, Đàm Đình Ninh, Biện Quý… hay bạn báo chí như Lê Bình, Nguyễn Xuân Nam…hay các nhà nghiên cứu Phật học rất mực tôn kính như Vũ Thế Ngọc, Đào Văn Bình… và cùng vớirất nhiều bạn khác.

Một trong những khoảnh khắc tuyệt vời trong đời tôi là khi nhạc sĩ Trần Chí Phúc, người nhiều thập niên ở San Jose trước khi dọn về Quận Cam, một đêm điện thoại và hỏi, rằng Hải có bài thơ nào để cúng Phật đản không. Đó là khởi đầu nhân duyên để hình thành CD Thiền Ca Hoa Bay Khắp Trời này. Và lòng tôi rất mực biết ơn người nhạc sĩ đã làm cho những dòng chữ này biết bay xa hơn, đẹp hơn.

Hãy hình dung rằng, thơ lúc nào cũng có một vẻ đẹp riêng, vì chữ là cảm xúc của thi sĩ trải lên trang giấy. Nhưng khi nhạc sĩ phổ nhạc, chữ được cất cánh, bay ra khỏi trang giấy, hiện thân giữa không gian lung linh. Và khi những nốt nhạc lung linh trong không gian đó được ca sĩ hát lên, chữ và nốt nhạc không còn là những gì trừu tượng nữa, chữ tức khắc bay theo gió, ngấm vào người nghe, lúc đó các âm thanh Thiền ca trở thành diệu nghĩa, để như Kinh Phật nói, là Văn, Tư, Tu… Tức là, hãy nghe, hãy nghiền ngẫm ý nghĩa, và hãy theo đó để tu.

Một số người thắc mắc rằng sao lại thơ. Sao lại phải cần tới thơ. Phải lo tu chứ, thì giờ đâu mà làm thơ.

Vâng, phải lo tu. Nhưng, rất nhiều người quên rằng Đức Phật là một nhà thơ tuyệt vời. Ngay khi chứng đạo, thành Phật quả, Ngài ứng khẩu 2 bài thơ, được ghi lại trong Kinh Pháp Cú Kệ 153 và Kệ 154. Tóm lược ý nghĩa nhưsau.


153. Vô số kiếp, lang thang hoài

tìm miệt mài sao chẳng gặp,

chưa thấy kẻ xây nhà này,

nên chịu khổ, tái sanh hoài.
  

154. Hỡi người thợ làm nhà ơi

Bây giờ Như Lai đã thấy

ngươi xây nhà hết nổi rồi

sườn nhà, khung dựng đều gãy

đòn dong, kèo cột tan rời

tâm ta tận diệt tham ái

chứng quả vô sanh sáng ngời.

.

Và như thế, là khởi đầu những dòng thơ tuyệt vời của Kinh Phật. Toàn Bộ Kinh Pháp Cú là thơ. Tất cả Trưởng Lão Tăng Kệ, Trưởng Lão Ni Kệ đều là thơ.Nếu chúng ta để ý, sẽ thấy tất cả, hay gần như tất cả, các Thiền sư khi ngộ đạo đều đột khởi thành thơ.

Tại sao phải là thơ? Nơi đây, thử đưa ra một suy đoán. Rằng thơ là chữ nghĩa, là sản phẩm của ý thức, và ý thức là ký hiệu ghi lại kinh nghiệm, và do vậy, thơ là dạng cô đọng của ngôn ngữ để truyền thông, để trình bày những kinh nghiệm, để người nghe dễ nhớ, và khi có chữ viết thì ghi xuống giấy cho người sau đọc. Tu Thiền là quan sát tâm mình, là phải nhìn thấy ngọn nguồn ý thức, và do vậy, thấy được sản phẩm ý thức là chữ, là thơ… Y như tiền trong túi, gặp chuyện là xài. Tương tự, khi người tu đã thấy ngọn nguồn ý thức, thấy nơi sinh khởi chữ, gặp chuyện là có thơ. Đó là tôi suy đoán thôi, không dám khẳng định, vì tự mình chỉ là người hậu học đơn sơ, người tu chưa tới đâu lại dám nói về những đỉnh cao nhất của nhà Phật.

Tuy nhiên, không có nghĩa rằng tất cả các Thiền sư chứng ngộ đều làm thơ. Không phải thế, tùy người thôi. Không tạo nhân duyên với chữ, sẽ không thấy cần làm thơ. Hay vì một đại sự nhân duyên nào, sẽ như Đức Phật nói, rằng trong 49 năm hoằng pháp, ta chưa từng nói một lời. Chúng ta tí nữa sẽ thấy chỗ này, rằng tự tánh của ngôn ngữ chính là vô ngôn, rằng thực tướng của lời phải là không lời. Tôi sẽ xin mời tất cả cùng thực tập, để nhìn thấy nơi lặng lẽ đó.

.

Bây giờ nói tới nhạc. Tại sao nói chuyện tu Thiền, lại liên hệ tới âm nhạc? Đức Phật là nhà thơ lớn, và trong thơ đã sẵn tính nhạc. Nhưng Ngài cũng có thể đã biết nhạc, vì Kinh Bốn Mươi Hai Chương ghi lời Đức Phật khuyên, rằng tu học phải trung dung, như dây đàn chớ để căng, chớ để chùng.

Trong một kiếp quá khứ, Đức Phật là một nhạc sĩ  thành Benares.Bộ sách Jataka, truyện 243, ghi lời Đức Phật kể về một kiếp quá khứ. Kinh gọi tiền kiếp Đức Phật bằng danh xưng Bồ Tát.  Ngài sinh trong một gia đình nhạc sĩ. Người ta gọiNgài là Nhạc sư Guttila.  Khi trưởng thành, Ngài giỏi tất cả mọi ngành âm nhạc, và trở thành nhạc sĩ xuất sắc nhất Ấn Độ.

Thời đó, Musila là nhạc sĩ giỏi nhất thành Ujjeni. Musila là tiền thân của Đề Bà Đạt Đa. Một số thương gia thành Benares khi tới Ujjeni, mới chê rằng Musila chơi nhạc thua xa Ngài Guttila. Musila mới tới Benares, xin học nhạc từ Ngài Guttila. Khi Musila học thành thạo xong, nghĩ rằng tài âm nhạc đã bằng vị thầy, nên sinh kiêu ngạo, nên thách đấu nhạc với Thầy trước cung điện nhà vua. Nhà vua hẹn 7 ngày sau, hai thầy trò âm nhạc sẽ tranh tài nhạc.

Nhạc sư Guttla suy nghĩ, “Cậu Musila này trẻ, còn mình già rồi. Nếu học trò mình thua mình, chẳng có gì đáng nói. Nhưng nếu mình thua học trò mình, thà chết trong rừng còn êm ái hơn là xấu hổ như thế.” Nhạc sư Guttila, tức tiền thân Đức Phật, đi đi lại lại trong khu rừng, lòng đầy do dự. Thế rồi 6 ngày trôi qua, nơi nào bước chân Ngài giẫm lên, cỏ chết tới đó, và thành một lối đi.

Lúc đó, Vua Trời Sakka thấy ngai trời nóng lên, mới thiền định, hiểu mọi chuyện, thấy rằng Nhạc sư Guttila đang buồn vì bị học trò thách đấu nhạc, nên mới xuống, tới trước mặt Nhạc sư Guttila và nói sẽ giúp. Nhạc sư Guttila nói, làm sao mà Vua Trời giúp được, vì kỹ năng đàn 7 dây  của Musila đã học từ thầy hết rồi.

Vua Trời Sakka mới nói, Nhạc sư an tâm, hãy cứ đấu nhạc, rồi Nhạc sư hãy bứt từng dây đàn trên cây đàn 7 dây, Musila sẽ thua, tới tận cùng âm thanh của đàn không dây sẽ tràn ngập khắp không gian 12 cõi. Vua Trời Sakka trao cho Nhạc sư Guttila 3 hạt xúc xắc, và nói, khi âm thanh đàn không dây bao trùm hết không gian, Nhạc sư hãy ném viên xúc xắc đầu tiên vào không gian, sẽ thấy 300 thiên nữ hiện ra, múa trước mắt; rồi Nhạc sư hãy ném viên xúc xắc thứ nhì, sẽ thấy thêm 300 thiên nữ hiện ra, múa phía trước cây đàn; và Nhạc sư hãy ném viên xúc xắc thứ ba, sẽ có thêm 300 thiên nữ nữa hiện ra, múa trong hội trường.

Tới ngày thi đấu nhạc, vua, quan triều đình và nhiều ngàn người tham dự… Đây là cuộc thi đấu nhạc của 2 nhạc sĩ xuất sắc nhất. Nhạc sư Guttila và học trò Musila thi đàn 7 dây. Tiếng nhạc cả 2 thầy trò đều tuyệt vời. Tất cả khán thính giả đều tán thưởng. Thế rồi, Nhạc sư Guttila bứt một dây đàn, tiếng đàn 6dây nghe tuyệt vời hơn, kỳ lạ như thế. Musila bắt chước, bứt một dây đàn, nhưng tức khắc, cây đàn của Musila không lên tiếng nhạc được nữa.

Thế rồi Nhạc sư Guttila bứt thêm một dây đàn, tiếng nhạc của đàn 5 dây nghe còn hay hơn nữa; rồi bứt thêm một dây, và tương tự, tới khi đàn không còn sợi dây nào, tiếng đàn không dây nghe tuyệt vời chưa từng có. Vua, quan triều đình, nhiều ngàn người đứng lên hoan hô, chứng kiến những điều chưa từng có. Thế rồi, Nhạc sư Guttila ném lên một hạt xúc xắc, 300 cô thiên nữ hiện ra múa; ném thêm hạt xúc xắc thứ nhì, 300 cô thiên nữ khác hiện ra; và ném hạt thứ ba, 300 cô khác hiện ra. Cả 900 cô thiên nữ đứng múa giữa trời. Nhà vua hoan hô Nhạc sư Guttila, và mắng Musila rằng ngươi là học trò sao lại hỗn, dám thách thức Thầy ngươi là Nhạc sư Guttila.

.

Nơi đây, chúng ta phải dặn nhau trước, rằng xin nhạc sĩ Trần Chí Phúc đừng bứt dây đàn nào hết. Cây đàn 7 dây tượng trưng cho Thất Giác Chi, còn gọi là Bảy Bồ Đề Phần, tức là 7 nhánh để tới giác ngộ, có thể tu thứ lớp, nhưng cũng có thể tu độc lập từng chi phần. Bảy dây đàn là tượng trưng: Trạch pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Niệm, Định, Xả.

Bứt từng dây đàn là quăng bỏ dần các pháp, để rồi tậncùng là đàn không dây, tức là, theo Kinh Tứ Thập Nhị Chương, nơi Chương 18, viết là: “Đức Phật nói: Pháp của ta là niệm vô niệm niệm, hành vô hành hạnh, ngôn vô ngôn ngôn, tu vô tu tu…”

Nghĩa là, suy nghĩ nhưng thực sự là suy nghĩ cái không suy nghĩ, làm nhưng thực sự là không làm, nói nhưng thực sự là không lời, tu nhưng thực sự là không tu…Đây là pháp khó tin, khó hiểu, khó vào. Tí nữa, chúng ta sẽ có một phút đồng hồ để thực tập pháp tu này.

Tại sao là tiếng nhạc bao trùm không gian 12 cõi? Đó là 12 nhân duyên. Là tất cả hiện tượng tâm lý và vật lý đều tương quan phụ thuộc nhau. Nói ngắn gọn là: cái này có, nên cái kia có; cái này diệt, thì cái kia diệt. Do vậy, tất cả các pháp không gọi là có, không gọi là không, vì nương dựa vào nhau để xuất hiện, chuyển biến và biến mất. Thí dụ về lý duyên khởi là thế này, như khi nghe giọng ca một ca sĩ. Bạn ngồi nhìn lên sân khấu, trực tiếp nhìn và nghe ca sĩ hát, những âm thanh vang trong không gian đó có gọi được là có, hay gọi là không? Có ai chụp bắt được những âm thanh hát lên hay không? Không ai chỉ ra được phương xứ của những âm thanh được hát lên. Không ai chỉ ra tánh của những âm vang hát ra. Tất cả đều từ nhân duyên khởi lên, phảỉ có một ca sĩ rèn luyện nhiều thập niên cộng với tài năng bẩm sinh, có ca khúc, có trống đàn, có luyện tập… nhưng ca khúc trước vẫn khác ca khúc sau, từng giây phút vẫn độc đáo, không hề giống giây phút nào, và tất cả đều vô tự tánh, đều không thực tánh, đều vô ngã, đều không có người ca, không có lời được ca, cũng không có người nghe mà chỉ có cái được nghe…

Không ai chụp bắt được bất cứ gì hết. Vì nốt nhạc này khởi lên, chúng ta nghe là có; và nốt nhạc đó biến mất để chỗ cho nốt khác, lúc đó chúng ta nghe là không. Nếu bạn níu theo nốt nhạc cũ, bạn sẽ mất cái khoảnh khắc âm vang bây giờ. Các pháp khởi lên, là tức khắc biến mất. Đó là vô thường, và tất cả đều là duyên khởi. Nếu bạn giữ tâm cho thật lặng lẽ và rỗng rang, bạn sẽ cảm nhận tức khắc như thế. Cảm nhận bằng toàn thân của bạn. Không qua lý luận gì, vì lý luận là sản phẩm ý thức, luôn luôn là cái tới sau. Ý thức là sản phẩm của quá khứ. Nhưng cảm xúc là cái tinh khôi, là cái không so đo.Từng âm vang chính là tâm của bạn hiển lộ ra qua cái được nghe. Do vậy, không thể nói gì về cảnh ca sĩ đứng hát, bởi vì chỉ là do nhân duyên hiện ra. Khi màn hạ, khi đèn tắt, khi nhạc sĩ rút dây đàn, khi ca sĩ rời sân khấu… cảnh cũ là duyên hợp, nên không thực tướng, và là không hề đi, vì cũng chẳng hề tới. Cảnh đó cũng là tới và đi trong Tánh Không của gương tâm rỗng sáng. Chính cái toàn thể đó đã hiển hiện ra, vận hành bởi Lý Duyên Khởi.

Tại sao 3 hạt xúc xắc? Tức là 3 cõi: Dục, Sắc và Vô Sắc. Khi đã bứt hết 7 dây  đàn, người tu thấy được các biến hóa của ba cõi. Cả 3 cõi này đều trong tâm mình. Cõi trời cũng là tâm, cõi địa ngục cũng là tâm.

Tại sao mỗi hạt xúc xắc là hiện ra 300 cô thiên nữ? Chỗ này, phải dẫn Kinh Tương Ưng Bộ -- Kinh SN 12.63 -- Puttamansa Sutta, trong đó Đức Phật nói về chúng sinh có 4 loại thức ăn, trong đó loại thứ tư là ăn bằng ý thức. Kinh ghi lời Đức Phật nói rằng, đối với chúng sinh cõi này,  ý thức là tên trộm, ý thức là kẻ tội hình sự, ý thức hiện ra như mũi giáo gây sinh tử luân hồi, rằng khi một người bị 300 mũi giáo đâm mỗi ngày, làm sao chịu nổi. Đức Phật nói, chỉ khi nàohiểu tận tường danh sắc, tức hiểu tận tường thân và tâm, là xong, không còn gì để tu.

Do vậy, 900 cô thiên nữ hiện ra là khởi từ ý thức. Quý vị thử nhìn lại ý thức mình xem, có ngày trong ý thức hiện ra không chỉ 300 cô, mà có khi cả ba ngàn cô hiện ra múa trong ý thức của mình.

Do vậy, trong Kinh Satta Sutta, Đức Phật dạy: “…Con hãy đập vỡ, hãy quăng tứ tán và hãy hủy diệt thức, và làm cho nó không cựa quậy gì nữa. Hãy xóa sổ khát ái với thức – vì xóa sổ thức xong, hỡi sư Radha, là Giải thoát.”

Tại sao nói rằng ý thức hiển lộ tượng trưng cho 300 mũi giáo, thực sự tôi không rõ, vì mình không dám nói chệch ra ngoài kinh. Chỉ đọc thấy Kinh Tương Ưng Bộ nói như thế. Nhưng rồi quý bạn sẽ thấy, khi nghe nhạc, mà thấu được giáo lý Duyên Khởi, lúc đó mới thấy tuyệt vời.  Lúc đó, nghe mà như không nghe, vì thấy không có ai ngồi nghe, nhưng thực sự vẫn là có cái được nghe. Chúng ta sẽ khảo sát chỗ này. Khảo sát, suy nghĩ, nghiền ngẫm… là phương pháp Thiền Phân Tích; sách của chư tăng Tây Tạng gọi đó là Analytical Meditation.

Không hề có một ai, nghĩa này là vô ngã. Từ nhỏ tới lớn, thân này có cả triệu thân, tâm mình có cả tỷ tâm… Chúng ta vui, buồn, mừng, giận… đếm tâm hoài không hết. Đức Phật đầu tiên là dạy vô ngã, tức là không có cái gì gọi là ta, tôi, của ta, của tôi… Vì cái tôi, cái ta cũng là duyên khởi, hệt  như chiếc xe, không ai chỉ ra cái xe ở đâu. Bánh xe, máy xe, khung xe… đều không phải. Nó duyên khởi, dựa vào nhau mà thành chiếc xe, đổ xăng vào, có người vào lái, là chạy được.  Cho nên, thực sự không có cái gì là xe. Cũng như giọng ca của ca sĩ, đủ duyên sẽ có, thiếu một duyên, thí dụ, cúp điện, là không nghe được. Tất cả là ảo, nhưng không phải không có.

Thấy vô ngã, là sẽ hết đau, hết buồn, không thấy gì cần phải nắm giữ. Đó là giáo lý Tứ Đế, hay Tứ Diệu Đế, tức là Bốn Sự Thật. Thứ nhất là Khổ Đế, tức là bất như ý; bạn bảo mình đừng già, đừng bệnh… là không được. Thứ nhì là Tập Đế, là tham ái, sẽ dẫn tới hữu; ngay khi trong tâm mình khởi lên một cái ước muốn nào, lập tức cả thế giới trùng trùng hiện ra theo. Thứ ba là Diệt Đế, khi tham ái diệt, tất nhiên khổ biến mất. Thứ tư là Đạo Đế, là con đường giải thoát, là Bát Chánh Đạo.

Nãy giờ nghe giáo pháp có vẻ khô khan, nhưng khi ứng dụng các bạn sẽ thấy tuyệt vời. Khi nói không có tôi, không có ta… nhưng trong thời kỳ đầu giáo pháp, vẫn nói có khổ, và dạy pháp thoát khổ; nói không có tôi, không có ta, nhưng vẫn nói có chúng sanh thọ khổ, và cần phải nghiêm cẩn đối trị tham ái để xa lìa hữu, để khỏi luân hồi. Chư tổ gọi đó là giáo lý Sinh Diệt Tứ Đế, dạy rằng thực sự có khổ để phải xa lìa.

Bước thêm một bước, chúng ta tới Giáo lý Trung Luận, còn gọi là Bát Nhã, hay giáo lý Tánh Không. Trong giáo lý Tánh Không, Đức Phật dạy rằng thực ra không hề có khổ, không hề có chúng sinh thọ khổ. Vì tất cả các pháp chỉ như huyễn, như mộng, như bọt sóng trên mặt biển. Và do vậy, trong cái thấy Tự Tánh Rỗng Rang Vô Tánh này, không hề có cái gì là khổ, không hề có cái gì gọi là thoát khổ. Giáo lý này còn gọi là Vô Sanh Tứ Đế, rằng các pháp vốnthực là vô sanh, chẳng hề có khổ, tập, diệt, đạo nào… Bát Nhã Tâm Kinh nói như thế: Vô khổ tập diệt đạo.

Làm sao để thấy thân mình rỗng rang vô tánh như thế? Hãy hình dung thế này, tiểu bang California có rất nhiều lối đi trong sa mạc. Hình ảnh này ai cũng từng thấy: một chiếc xe chạy vút qua, bánh xe sẽ thổi lên một đám bụi sa mạc. Mỗi người chúng ta là một đám bụi sa mạc. Không hề có thực thể, tuy là các đám bụi sa mạc vẫn vui, buồn, mừng, giận… nhưng chuyển biến từng khoảnh khắc. Nói như thế, không có nghĩa là không có. Đạo Phật không hề quan niệm có hư vô. Chỉ có nghĩa là, có mà như không có, có là do duyên khởi, hết duyên là đám bụi sa mạc tan đi. Trong hội trường này, chúng ta đang có mấy trăm đám bụi sa mạc như thế. Trước mặt tôi là những đám bụi sa mạc tài năng tuyệt vời… thí dụ như các ca sĩ sắp hát nơi đây: Diệu Linh, Thanh Vũ, Thu Nga, Hồng Nga, Phương Thúy, Huy An, Nguyên Đán, Mai Phi Long….

Khi thấy tất cả chúng ta đều là các đám bụi sa mạc, sẽ trực nhận đó là Tánh Không, rằng tất cả thế gian đều là rỗng rang vắng lặng. Làm gì có cần phải tu nữa. Nên Chứng Đạo Ca của Ngài Huyền Giác có thơ: Giác tức liễu, bất thi công… Rằng ngộ là xong, là không cần ra sức nữa.

Tuy nhiên, nói rằng Không, không có nghĩa là không gì hết. Tí nữa, tôi sẽ mời quý bạn nhìn vào cái không, cái rỗng rang vắng lặng này. Khi chúng ta nhìn vào tâm mình, nhìn hoài không thấy cái gì là tâm hết. Chợt nghe tiếngchim kêu, mới thấy tâm hiển lộ ra. Tiếng chim kêu là tâm của bạn, nhưng tức khắc biến đi, tâm bạn trở về vắng lặng, không dò ra tung tích. Còn gọi là các pháp bất nhị, không hai, vì tiếng kêu và tâm không hai, không khác, nhưng không phải một. Ngày xưa, Ngài Huệ Khả gặp Bồ Đề Đạt Ma nói rằng con xin thầy giúp an tâm con. Bồ Đề Đạt Ma nói, ngươi  đưa tâm ra cho ta an cho. Huệ Khả khựng một chặp, nói là con không thấy tâm đâu hết. Bồ Đề Đạt Ma nói, ta an tâm người rồi đó. Tức là để tâm nơi rỗng rang vắng lặng là an tâm rồi, đâu còn tâm nào quậy phá nữa.

Tới đây, chúng ta tới giáo lý về Phật Tánh. Khi nói tâm rỗng rang, không có nghĩa là hư không hay hư vô. Bầu trời trước mắt là không, là rỗng rang, nhưng bầu trời đó cũng như cục đá, chẳng hề thấy nghe hay biết. Bạn nhìn kỹ vào tâm, sẽ thấy là rỗng rang, niệm khởi rồi biến mất, vì tự tánh của niệm là vô tự tánh. Khổ cũng như thế, tham sân si cũng thế… bản tánh là rỗng rang, tịch lặng. Nhưng khác với bầu trời vật lý kia, chói ngời trong tâm chính là Phật Tánh. Đức Phật có dạy trong Aṅguttara Nikāya, chương Một Pháp viết: “Chư tăng, tâm này chói sáng, và tâm này xa lìa các bụi bên ngoài tới bám.”

Giáo lý này còn gọi là Vô Tác Tứ Đế, tức là Phật Tánh này thực sự là Vô Tự Tánh, là rỗng rang, nhưng là chói sáng. Tứ Đế không hề được tạo tác, Niết Bàn cũng không hề được tạo tác. Các pháp vắng lặng, rỗng rang, nhưng có tâm này chói sáng, nên mới có thấy nghe hay biết. Do vậy, vì có tâm này, tất cả chúng ta thực sự đã là Phật, gọi là Lý Tức Phật, nói theo Kinh Pháp Hoa. Về Lý, chúng ta có tâm chói sáng này, nên đều là Phật, trên nguyên tắc.

Nãy giờ, chúng ta đã nghe về 3 thời kỳ Chuyển Pháp Luân của Đức Phật. Thời kỳ đầu, là Sanh Diệt Tứ Đế, rằng có khổ, có diệt khổ. Thời kỳ hai là Bát Nhã, hay Tánh Không, còn gọi là Vô Sanh Tứ Đế, rằng thực tánh các pháp vốn rỗng rang vô tự tánh, thực tướng các pháp vốn không hề có tướng. Thời kỳ ba là về Phật Tánh, còn gọi là Vô Tác Tứ Đế, rằng trong cái rỗng rang vắng lặng vẫn có cái tâm chói sáng, rằng Niết Bàn không hề do tạo tác mà thành. Rằng các pháp vốn bản lai thanh tịnh.

Nói ngắn gọn, Vô Tác Tứ Đế là gì? Nghĩa là, cốt tủy của Kinh Bahiya Sutta, là trong cái nghe sẽ chỉ là cái được nghe… Nghĩa là, cốt tủy của Kinh Sandha Sutta, là Thiền pháp của tuấn mã, là không dựa vào những gì được thấy, nghe, cảm thọ, nhận biết…

.

Bây giờ, tôi xin mời tất cả chúng ta, những đám bụi sa mạc này, cùng thực tập Thiền, một phút thôi, để thấy Niết Bàn Diệu Tâm.

.

[Nói chậm, giọng hướng dẫn]

Tôi sẽ nói thật chậm để hướng dẫn Thiền tập, một phần là theo cách tổng hợp từ nhiều ứng dụng (các apps) hiện lưu hành trên thị trường điện thoại tinh khôn. Xin mời các bạn ngồi  thẳng lưng. Trong hội trường, chỉ duy có tư thế ngồi  trên ghế. Nhưng nếu ở nhà, các bạn có thể tập cả đi, đứng, nằm, ngồi. Bộ Luận Thanh Tịnh Đạo nói, cả 4 tư thế đều nên tập, không phải tư thế ngồi thích hợp với mọi người.

Xin mời để hai bàn tay  trên đầu gối. Mắt nhắm lại nhẹ nhàng. Nếu bạn ở nhà, không nhất thiết nhắm mắt, có thể mở và khép nhẹ là tiện. Xin mời thẳng lưng, thẳng cổ, toàn thân thư giãn. Hãy suy nghĩ rằng, hai bàn chân mình thư giãn rồi, hai đầu gối mình thư giãn rồi, lưng và bụng thư giãn rồi, hai vai buông xuôi và thư giãn rồi, đầu mình nhẹ nhàng và thư giãn rồi.

Xin mời thở vào thật nhẹ, hãy cảm nhận hơi thở nơi mũi, hơi nhẹ nhàng vào, bụng phồng lên tự nhiên.

Rồi thở ra nhẹ nhàng, hãy cảm nhận hơi thở nơi mũi, hơi nhẹ nhàng ra, bụng xẹp tự nhiên.

Hãy thở vào, thở ra vài hơi như thế. Hãy cảm nhận làn da có nơi mát hơn, có nơi bình thường.

Không suy nghĩ gì hết trong đầu. Hãy giữ hơi thở nhẹ nhàng. Hãy thấy toàn thân và tâm của bạn chỉ còn là hơi thở, rằng không ai đang thở.

Bây giờ, xin mời nhìn vào tâm của bạn. Tâm này ở đâu? Không ở đâu hết. Tâm không ở trong thân, không ở tay, không ở chân. Nhưng ngay khi ngứa chân, thấy ngay tâm ở chỗ ngứa. Ngứa ít, thì chịu đựng; nếu ngứa nhiều, hãy gãi nhẹ nhàng. Hết ngứa, tâm đó biến mất.

Bạn hãy nghĩ, mình là đám bụi sa mạc, lung linh sống từng khoảnh khắc, mỗi ngày mỗi chậm hơn, yếu hơn, và tới gần chỗ tan hết đám bụi. Bạn hãy nghĩ, không có cái gì là tôi, là ta… ở đâu hết.

Hãy lặng lẽ, giữ tâm trong hơi thở dịu dàng, và trong cái nhìn chăm chú rằng không có gì trong tâm.

Bây giờ, hãy thốt lên trong tâm chữ a hay chữ b, hay một con số, thí dụ số 1 hay số 2. Bạn sẽ thấy niệm này khởi lên, không từ đâu hết. Khi âm vang niệm này chìm xuống, nó biến mất trong tâm bạn. Tâm bạn  bây giờ là một tấm gương khổng lồ, như bầu trời, tâm bạn trong trẻo, nên hễ niệm  nào khởi lên là cũng thấy. Các niệm hiện ra, rồi biến mất. Hãy giả sử, bạn cố ý khởi tâm sân, bạn nhớ tới chiếc xe bị đụng tuần trước, bạn bực tức, và bạn nhìn thấy tâm giận này cũng lặng lẽ tan vào biển tâm, tan trong bầu trời rộng như hư không của tâm. Tương tự với tâm tham, giả sử bạn nghĩ tới món ăn bạn ưa thích thời thơ ấu, nhiều năm rồi chưa gặp lại món này, và bạn thèm ăn; xin hãy nhìn lặng lẽ, tâm này sẽ biến tức khắc. Sau này, khi tập ở nhà, các bạn không cần tự khởi tâm nào làm chi.Gương tâm của bạn bao trùm hết toàn thân, toàn cảnh. Đó là, thực tướng của tham sân si là Niết Bàn. Đừng làm gì hết, chỉ chú tâm lặng lẽ thôi.

Bạn hãy thở dịu dàng, hãy nhìn lặng lẽ, hãy ngấm mình trong hạnh phúc, rỗng rang, vắng lặng. Không làm gì hết. Không thấy cần tu tâm gì hết, vì không pháp nào hiện lên trong gương tâm rỗng lặng này. Nhưng không phải là không biết, vì bạn vẫn thấy nghe hay biết, và không dính vào bất kỳ niệm nào.

Tỉnh tỉnh, lặng lặng… Hãy thở nhẹ nhàng. Hãy buông xả thân và tâm trong tỉnh thức ngời sáng, lặng lẽ…

Hãy cứ như thế… Bây giờ xong một phút rồi, bạn từ từ cử động, nhẹ nhàng, và giữ bầu không khí Thiền tập đó trong cả buổi này, mang về nhà...

[Hết Thiền tập]

.

Bây giờ, chúng ta nói về các ca khúc Thiền. Có lẽ không còn nhiều thì giờ, vì tất cả chúng ta đều muốn nghe tiếng hát từ các đám bụi sa mạc tuyệt sắc nơi đây.

Trong 10 bài thơ được nhạc sĩ Trần Chí Phúc phổ nhạc, bài nào tôi cũng thích, bài nào cũng có kỷ niệm.

Hầu hết các bài đều dễ hiểu, thơ mộng. Những câu thơ mang diệu nghĩa của Kinh Phật, đều đã được giải thích nơi phần đầu bài nói chuyện này.


Thí dụ như trong bài Hoa Bay Khắp Trời, các câu:

"Nghe kìa, chỉ tiếng trong lời, không ta không người, chỉ tiếng được nghe, không ai đang nghe...

Ngồi đây, cảm nhận hơi thở, hơi vào hơi ra, chỉ là hơi thở, không ai đang thở.

Tâm kià, khắp cảnh là tâm, khắp tâm là cảnh, khắp trời gương sáng, khắp trời là tâm..."

Đó là từ Kinh Bahiya đã nói, là pháp bất nhị mà bạn vừa ngồi Thiền tập. Không gì ra ngoài kinh.


Hay là ca khúc Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, các bạn sẽ thấy có câu:

"...thiết tha niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, đấng từ bi vô lượng, giữa ba cõi bất an, hiện thân đi cứu khổ.

Con niệm tên ngài, vào lửa không cháy, ra sóng không chìm, vào trận bình an, gậy đao tự gãy, gông xiềng tự rã, thú dữ tự lìa, ly tham sân si..."

Hồi nãy, các bạn đã ngồi Thiền tập rồi đó. Niệm Đức Quán Thế Âm, tức là bạn chăm chú nghe tiếng xao động trong tâm, vào lửa không cháy nghĩa là khi tâm sân giận khởi lên, bạn nhìn thấu suốt tự tánh của niệm sân là rỗng lặng, tức thời tâm sân biến mất; ra sóng không chìm nghĩa là khi tâm tham khởi lên, bạn nhìn thấu suốt tự tánh niệm tham là rỗng lặng, tức thời tâm tham biến mất vào bầu trời gương sáng của tâm. Gậy đao, gông xiềng, thú dữ… cũng là biến hiện của các tâm sở bất thiện. Ly tham sân si không có nghĩa là chạy sang cõi nào hết, vì phiền não trong tự tánh đã là Niết Bàn rồi. Chỉ Thấy Tánh là xong, là không có gì để tu hết, vì tịch diệt đã hiện tiền.


Hay là ca khúc Niệm Phật A Di Đà, với những câu thơ được phổ nhạc như:

"Niệm Phật niệm toàn thân, Phật hiện sáng ngời tâm, nhìn tâm là thấy Phật, nhìn Phật là thấy tâm, quay đầu là bờ, Nam Mô A Di Đà Phật..."

Hồi nãy, chúng ta đã ngồi niệm rồi đó, đã dùng hơi thở niệm toàn thân, thấy tánh tỉnh thức hiện sáng ngời tâm rồi đó, đã thấy tâm mình xa lìa thamsân si tức là thấy Phật rồi đó. Còn quay đầu là bờ, có nghĩa là khi bọt sóng tham sân si khởi lên, là thấy ngay tánh nước của nó, tức thì tánh của tham sân si cũng là Phật Tánh. Quay đầu là bờ có nghĩa là, khi thấy tự tánh các pháp là vô tự tánh, tức khắc sẽ thấy dòng sông tham dục khô cạn, tức khắc nhìn đâu cũng là bờ giải thoát.


Một tuyệt vời nữa, là ca khúc Phật Giáo Việt Nam Lên Đường, trong đó là tấm lòng người Phật Tử với Biển Đông, với quê nhà, như:

"Con về đây, từ núi cao, từ biển xa, với hồn thiêng rồng tiên ngàn năm quê hương Việt Nam

Con về đây, nghe chuông chùa, lời mẹ ru, giữ đời đời, nguyện quy y Phật Pháp Tăng...

Con lên đường, tới Trường Sơn, tới Biển Đông, giữ quê hương, một tấc đất không để lui

Con lên đường, lấy tình thương, bảo vệ dân, vững ngàn năm, hộ trì Phật Giáo Việt Nam."


Và cuối cùng, xin trân trọng cảm ơn chư Tôn Đức Tăng Ni, cảm ơn tất cả các bạn và quan khách. Cảm ơn San Jose, mối tình đầu của tôi. Cảm ơn nhạc sĩ Trần Chí Phúc, cảm ơn tất cả các ca sĩ, nghệ sĩ… Tất cả các bạn đều là những đám bụi sa mạc đẹp tuyệt vời, tài năng tuyệt vời.


GHI CHÚ: Đã có nhiều video trên Youtube.

Truyền Hình VN (Cali Today):

https://www.youtube.com/watch?v=vZcop50aLXE

Mạc Phương Đình (Ngo Le):

https://www.youtube.com/watch?v=REVE1uVI8d0




..

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
Việt Nam bước vào năm Giáp Thìn 2024 với gánh nặng tham nhũng và một đội ngũ “không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức lối sống. Đó là cảnh báo của người đứng đầu đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc phỏng vấn đầu năm của Thông Tấn Xã Việt Nam...
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.