Hôm nay,  

Trang Sử Việt: Tăng Bạt Hổ

23/09/201600:01:00(Xem: 4754)
TĂNG BẠT HỔ
(1858 - 1906)
  
Tăng Bạt Hổ còn tên khác là Tăng Doãn Văn, tự là Sư Triệu, hiệu Điền Bát, quê huyện Hoài Ân, Bình Định. Ông là nhà cách mạng, luôn bôn ba lo cho tổ quốc và dân tộc.
   
Năm 1872, ông 14 tuổi tự nguyện tham gia chống Pháp với tướng cờ đen Lưu Vĩnh Phúc. Năm 1885 đến 1887, ông hưởng ứng chiếu Cần Vương, cùng với Phạm Toàn chiêu mộ nghĩa quân, xây dựng chiến khu chống Pháp tại vùng núi Kim Sơn (huyện Hoài Ân), nơi đây là vùng rừng núi có địa thế hiểm trở. Sau đấy, ông đã liên kết với lực lượng của Mai Xuân Thưởng, ông phòng ngự mặt trận phía bắc Bình Định. Ông và Bùi Điền cho quân xây dựng và củng cố thêm khu Chóp Chài (Phù Mỹ) và hai đồn tại đèo Phủ Cũ và đèo Bình Đê.
  
Đầu năm 1886, Pháp và triều đình Huế, cử Trần Bá Lộc và Nguyễn Thân đem quân tấn công các lực lượng kháng chiến ở Bình Định. Tăng Bạt Hổ cử hai tướng Bùi Điền và Đỗ Duyệt đem quân chận đánh nhưng bị thất trận. Ông cho củng cố phòng thủ, tuyển mộ thêm nghĩa quân; nhưng quân của tay sai Pháp là Nguyễn Thân đông đảo và có vũ khí tối tân, nên các chiến lũy của Nghĩa quân bị địch chọc thủng. Đầu năm 1887, Nguyễn Thân đem đại quân vây đánh chiến khu Kim Sơn. Nghĩa quân phải phân tán mỏng, lẫn vào dân chúng rồi đến nương náu tại các bản làng Tây Nguyên.
  
Thấy lực lượng kháng chiến khó gầy dựng lại được, nên ông làm thuỷ thủ tàu buôn đến các nước Thái Lan, Tàu, Nhật, để tìm hiểu về các nước ngoài, mong tìm phương thức đấu tranh mới. Khi ông tạm dừng chân ở Nhật Bản thời gian, ông đã học được tiếng Nhật. Tâm hồn ông có ác cảm với ngoại xâm phương Tây, lại gặp chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905), ông tham chiến với Hải quân Nhật. Những trận ở Đài Liên, Lữ Thuận, ông nổi tiếng là can trường.
 

Ngày khải hoàn, ông được dự bữa đại yến do vua Nhật là Minh Trị Thiên Hoàng đãi các tướng sĩ. Khi ông uống chén rượu mừng chiến thắng thì ông bật khóc. Vua Nhật hỏi vì sao khóc? Ông thưa: “Tôi vốn không phải là người Nhật, mà người Việt lưu vong. Sau khi thất bại trong việc chống Pháp, tôi tới đây, may được Bệ hạ tin dùng. Nay thấy quý quốc thắng Nga, làm vẻ vang giống da vàng, tôi nghĩ đến tình cảnh nước tôi mà không cầm được giọt lệ. Bao giờ dân nước tôi mới được một bữa yến như hôm nay của quý quốc!”. Nghe lời chân thành và khẳng khái của ông, mọi người đều khen ông là người ái quốc. Từ đó, ông quen với Khuyển Dưỡng Nghị, Đại Ôi Trọng Tín. Họ khuyên ông: “Trước hết, phải lo phát triển phong trào duy tân trong nước, để nâng cao dân khí và dân trí. Muốn duy tân, không thể trông cậy ở Pháp được, vì Pháp không thực tâm khai hóa, phải lựa những thanh niên ưu tú đưa qua đây, nước chúng tôi sẽ đào tạo cho”. 
  
  Ông trở về Việt Nam, đưa Phan Bội Châu và Đặng Tử Kính sang Nhật vào năm 1904. Sau đấy, ông cùng Phan Bội Châu đi thương thuyết với chính khách Nhật, chuẩn bị đưa Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và thanh niên Việt Nam sang Nhật du học. Năm 1905, Phan Bội Châu viết bài luận thuyết “Khuyên thanh niên Việt Nam du học”, ông nhận trách nhiệm đem bài luận thuyết về nước phổ biến, nhân dịp này sẽ tìm và kết nạp các nhân sĩ yêu nước. Về nước, nghe tin cụ Lương Văn Can là người yêu nước, ông đến nói về phong trào Đông du, hai người con cụ Can: Lương Ngọc Quyến và Lương Nghị Khanh trở thành hai sinh viên Đông Du đầu tiên. 
  
     Năm 1906, bị Pháp truy bắt nên ông phải bí mật sống trên một chiếc thuyền ở sông Hương (Huế). Bị bệnh nặng, các bạn của ông là Dương Bá Trạc, Võ Bá Hạp tận tình chạy chữa nhưng bệnh vẫn không giảm. Sau khi mất, thi thể của ông được các chiến hữu đem chôn cất ở dốc Nam Giao.
  
Cảm kích: Tăng Bạt Hổ
   
Tăng Bạt Hổ, nghiền ngẫm núi sông!
Bôn ba đạp sóng, cưỡi cuồng phong!
Thanh niên xuất ngoại, lo lường giúp
Chiến hữu vào bưng, lưu luyến trông!
Ngự tửu thưởng công, xao xuyến dạ?!
Đông du mong mỏi, nhớ nhung lòng!
Sông Hương, vương vấn hồn trung liệt
Nghĩa nước chứa chan, ai thấy không?! 
  
Nguyễn Lộc Yên


.
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.