Nguyễn Cao hiệu Trác Hiên, quê Bắc Ninh, ông sinh trong một gia đình có truyền thống yêu nước, cha là Tri huyện Quế Dương: Nguyễn Thế Hanh. Khi ông 4 tuổi, cha mất, mẹ là Nguyễn Thị Điềm (Bà Huyện Quế Dương) khi ấy ngoài 20 tuổi, người duyên dáng nên lý trưởng địa phương theo ghẹo và ép buộc, bà hẹn lần lữa, chờ Nguyễn Cao được 10 tuổi, nhân ngày giỗ chồng vừa xong, bà nói rõ về tên lý trưởng háo sắc đã theo bức ép bà, đoạn bà dùng dao tử tiết không ai ngăn kịp, mọi người bàng hoàng, cảm phục!
Nguyễn Cao miệt mài học tập. Năm 1867, thi đỗ Giải nguyên, làm chức Bắc Kỳ Tán lý quân vụ. Sau hai lần quân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội, lần thứ I năm 1873 (Nguyễn Tri Phương tử tiết); lần thứ II năm 1882 (Hoàng Diệu tử tiết), Nguyễn Cao với một số chí sĩ yêu nước, sau 2 lần này đều đem quân đánh giặc Pháp tan tác tại Gia Lâm (ở phía đông của thành phố Hà Nội), nhưng không giữ nổi phải rút lui.
Năm 1883, triều đình Huế ký Hòa ước Quý Mùi (1883), Việt Nam bị Pháp đô hộ, ông treo ấn từ quan để tham gia chiến khu bãi sậy với Nguyễn Thiện Thuật. Năm 1886, ông về Hà Nội âm thầm hoạt động, mở trường dạy học, đào tạo mầm non yêu nước và tìm các chí sĩ để tiếp tục kháng chiến.
Ngày 27-3-1887, ông đánh Pháp ở làng Kim Giang (Hà Tây) bị giặc bắt. Pháp dùng quan tước và phú quí để dụ hàng. Ông khẳng khái, hét lớn: “Chúng bây xem đây!”. Giặc đang hoảng hốt, ông liền dùng móng tay tự khoét bụng kéo ruột ra, tung vào mặt thực dân, khẳng khái nói: “Ruột ta đây, bây xem có khúc nào phản thì bảo?!” Giặc đang hoảng hốt vì bất ngờ. Ông cắn lưỡi tuẫn tiết vào ngày 14 tháng 4 Đinh Hợi (1887), ai ai cũng cảm phục và tiếc thương!
Cảm mộ: Nguyễn Cao
Nguyễn Cao, dòng dõi vốn trung kiên
Lo lắng nước nhà, lúc ngửa nghiêng!
Khúc ruột hiên ngang, lời khẳng khái
Giống nòi lưu luyến, quốc hồn thiêng!
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn