(Lời tâm tình: Bài viết về “Sử Việt” chỉ khái quát, không đi sâu từng chi tiết của mỗi nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có chỉ là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung đã biên soạn. Trang Sử Việt luôn mong mỏi nhúm nhen tình tự dân tộc, niềm yêu thương quê hương và giữ gìn Việt ngữ cùng văn hóa Việt. Trang Sử Việt đăng trên Vietbao Online thứ Ba và thứ Sáu hằng tuần).
________________
.
ANH HÙNG THÀNH TRẤN HẢI
.
- Lê Sĩ (1816-1883) quê Quảng Bình. Năm 1861 được bổ làm Phó Đề đốc Biên Hòa lo phòng thủ phía Bắc Đại đồn Kỳ Hòa ở Gia Định. Sau đó, triều đình triệu về Huế trông coi mặt trận phía nam kinh thành, kiêm Chưởng vệ các đạo binh tượng. Năm 1863, triều đình chuyển ông vào giữ chức Tuần vũ Khánh Hòa. Năm 1866, thăng chức Võ lâm dinh thống chế, tước phong Kiên Dũng Nam. Năm 1867, giữ chức Quyền Hữu quân đô thống, đến năm 1883 thực thụ chức Hữu quân đô thống phủ đô thống chưởng phủ sự, trực tiếp chỉ huy thành Trấn Hải ở cửa biển Thuận An.
.
- Lâm Hoành (hay Hoằng: 1829-1883), quê huyện Gia Linh, tỉnh Quảng Trị, ông còn có tên là Lâm Chuẩn, là võ tướng của triều Nguyễn, Năm 1867, ông đỗ Cử nhân. Năm 1868, đỗ Phó bảng, cùng khóa với Dương Khuê. Năm 1880, đi sứ qua Tàu, sau đó được phong chức Tham tri Bộ công. Đến năm 1883, ông và Đô thống Lê Sĩ, Thống chế Lê Chuẩn giữ thành Trấn Hải cùng Chưởng vệ Nguyễn Trung.
.
- Trần Thúc Nhẫn (?-1883), tự Hy Nhân. Tên cũ của ông là Trần Thúc Chính, sau được vua Tự Đức ban tên là Thúc Nhẫn; quê huyện Quảng Điền, Thừa Thiên. Ông đỗ Cử nhân thời Tự Đức, được thăng đến chức Tham tri bộ Lễ. Đến thời vua Hiệp Hoà cử ông làm trưởng đoàn đi thương thuyết với Pháp. Việc thương thuyết không thành, Hải quân thiếu tướng Pháp là Courbert đem tàu chiến vào đánh cửa Thuận An.
.
*- Thành Trấn Hải thuộc huyện Phú Vang, Thừa Thiên, là một thành lũy được xây dựng nơi eo biển của sông Hương đổ ra biển, dùng để bảo vệ phía đông của kinh đô Huế. Thành Trấn Hải cách kinh thành Huế khoảng 12 km. Năm 1813, vua Gia Long cho xây nơi đây một tòa thành lũy theo kiểu thành Vauban và gọi là Trấn Hải đài. Vòng thành có chu vi 302m, đường kính 96m, cao 4,40m, dày 12,60m. Thành có cửa chính ở mặt trước và cửa phụ ở mặt sau. Đến năm 1834, vua Minh Mạng cho đổi tên Trấn Hải đài ra Trấn Hải thành. Nhiệm vụ của Trấn Hải thành là phòng thủ mặt biển để bảo vệ kinh đô, và kiểm soát, điều khiển mọi loại tàu thuyền trong nước và nước ngoài ra vào cửa biển Thuận An.
.
Thời vua Hiệp Hòa, ngày 15 đến 18-8-1883, đô đốc Pháp là Amédée Courbet đem 7 tàu chiến và 1.050 lính tấn công thành Trấn Hải và các đồn bót ở đó. Mặc dù bị giặc tấn công ác liệt nhưng các vị võ tướng vẫn chỉ huy chống trả quyết liệt ròng rã 3 ngày đêm. Vũ khí của giặc tối tân, áp lực càng lúc càng tăng, quân ta dù can trường chiến đấu nhưng không thể cầm cự lâu dài. Các vị anh hùng: Đô thống chưởng phủ sự Lê Sĩ, Chưởng vệ Nguyễn Trung, Thống chế Lê Chuẩn, kiên cường tử chiến cho đến khi hy sinh. Anh hùng Trần Thúc Nhẫn, Lâm Hoành gieo mình xuống biển tử tiết.
Các vị anh hùng đã hy sinh vì tổ quốc, đồng bào luôn kính trọng, triều đình vô cùng thương tiếc. Các vị anh hùng đều được truy phong tước vị và liệt thờ ở miếu Trung liệt (Huế).
.
*-Thiết nghĩ: Những anh hùng vị quốc vong thân: Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu tuẫn tiết khi thành Hà Nội thất thủ. Năm 1883, giặc Pháp tấn công thành Trấn Hải, các vị anh hùng: Lê Sĩ, Nguyễn Trung, Lê Chuẩn, Lâm Hoành, Trần Thúc Nhẫn đã hy sinh vì tổ quốc.
Ngày 19-1-1974, quân Tàu tấn công đảo Hoàng Sa, 74 chiến sĩ Hải quân VNCH đã can trường giữ đảo hy sinh, trong đấy có thiếu tá Ngụy Văn Thà. Cuối tháng Tư năm 1975, khi Việt cộng chiếm miền Nam Việt Nam; các tướng: Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú, là Ngũ hổ tướng của QLVNCH đã tuẫn tiết hy sinh khi quốc gia nguy vong.
Những anh hùng hy sinh vì nước, tổ quốc tri ân, đồng bào mãi nhớ ơn và anh linh các vị anh hùng dù đã về Thượng giới, nhưng tử tiết vì tổ quốc thì tên tuổi đời đời bất tử.
.
Cảm phục: Anh Hùng Thành Trấn Hải
.
Nguyễn Trung, Lê Sĩ, sắt son trung!
Trần Thúc Nhẫn, cầm cự đến cùng!
Lê Chuẩn xông pha, luôn bất khuất
Lâm Hoành tử chiến,mãi hào hùng!
Thuận An, nghe sóng gào vương vấn
Trấn Hải, nhìn thành gợi nhớ nhung!
Trung nghĩa, trung trinh, danh bất tử?!
Tiếc thương tuẫn tiết, nỗi niềm chung?!!
.
Nguyễn Lộc Yên
.
.
Gửi ý kiến của bạn