Năm 1825 ông đỗ Hương cống, năm 1829 đỗ Tiến sĩ, bổ làm Hàn lâm viện biên tu, rồi Lang trung Bộ hình, sau đấy bị giáng chức.
Năm 1833, ông được phục chức và làm bộ tướng cho Tham tán Trương Minh Giản vào Nam đánh Lê Văn Khôi, sau đấy còn dẹp quân Xiêm La (Thái Lan) do Lê Văn Khôi cầu viện.
Năm 1837, ông làm Án sát Quảng Ngãi, năm 1840 làm Án sát Hưng Yên.
Năm 1841, về triều làm Tả thị lang Bộ lễ rồi Bộ lại, Bộ công, sau cùng là Thượng thư Bộ hình.
Khi ông giữ chức Tổng tài quốc sử quán, ông cùng các quan trong Sử quán biên soạn: “Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục”.
Khi xưa, Việt Nam dùng lịch Đại thông của Tàu mà in ra để dùng; đến khi ông trông coi Khâm thiên giám, ông nghiên cứu lịch của Đông phương và Tây phương làm ra lịch của ta rất chính xác. Các giáo sĩ Tây phương đã nói rằng: “Lịch Việt Nam xem nhật thực, nguyệt thực, chính xác hơn lịch Tàu”.
Ông là người liêm chính thương dân, việc trị nước ông nói: “Hậu trạch, thâm nhân dưỡng dân dã” (Thực thi sâu rộng lòng nhân để nuôi dưỡng dân).
Năm 1864, Tạ Văn Phụng nổi loạn ở các tỉnh Hải Dương, Quảng Yên, Bắc Ninh, do Pháp yểm trợ để gây loạn lạc tại Việt Nam cho chúng dễ dàng xâm lược. Triều đình cử: Hiệp thống Trương Quốc Dụng, Tán lý Văn Đức Giai, Tán tương Trần Huy San xuất quân đi dẹp loạn. Lúc đầu thắng trận, đến trận đụng độ tại Quảng Yên cả 3 ông đều tử trận.
Ông còn để lại các tác phẩm: Công hạ ký văn; Văn quy Tân Thể; Trương Nhu Trung thi tập; Chiếu Biểu luận thức.
Cảm Mộ: Trương Quốc Dụng
Trương Quốc Dụng, lo lắng nước nhà!
Đồng bào lưu luyến, khắp gần xa!
Nghĩ suy lịch pháp, không sai lệch
Chiến trận hy sinh, tưởng thiết tha!
Nguyễn Lộc Yên
- Từ khóa :
- Việt Nam
- ,
- Quảng Ngãi
- ,
- Hà Tĩnh
Gửi ý kiến của bạn