Hôm nay,  

Viện Trợ Chính Thức và Mặt Trái

06/04/201600:00:00(Xem: 6380)

...viện trợ là con dao hai lưỡi...

Với viễn ảnh không xa là Việt Nam sẽ hết được viện trợ theo thể thức ODA, người ta bắt đầu nói đến những khó khăn sau đó, khi kinh tế vẫn cần huy động vốn mà phải vay theo điều kiện của thị trường kể từ Tháng Bảy năm tới. Chuyện ấy là gì và có hậu quả ra sao, mục Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu qua phần phân tích sau đây của chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.

Nguyên Lam: Nguyên Lam xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, gần đây, giới chức của Bộ Tài Chính Việt Nam có trách nhiệm về quản lý nợ và tài chính đối ngoại cho biết là Việt Nam có thể không còn được vay nợ theo điều kiện viện trợ chính thức mà chuyển sang nguồn vay theo điều kiện thị trường. Hai định chế tài trợ quốc tế là Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Á châu cũng xác nhận chiều hướng ấy. Ông nghĩ sao về việc này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ đây là tin vui vì Việt Nam như một đứa trẻ đã lớn, nay sắp đến lúc cai sữa và sẽ được ăn cơm rồi chập chững đi. Tôi chỉ không hiểu là tại sao người ta hốt hoảng vì sự chuyển hóa ấy đã được dự báo từ lâu, khi lợi tức đồng niên của một người lên tới mức trung bình là hơn một nghìn đô la một năm kể từ năm 2009.

- Tôi cũng xin được nhắc lại là Tháng Hai vừa qua, Ngân hàng Thế giới và Việt Nam vừa hòan tất công trình nghiên cứu về những gì phải làm để đưa Việt Nam lên trình độ có lợi tức trung bình cao, là trong 20 năm nữa từ lợi tức hai nghìn một người vào năm 2014 phải lên tới bảy nghìn vào năm 2035. Có lẽ người ta hốt hoảng vì đứa trẻ chưa được chuẩn bị cho ngày khôn lớn mà giới hữu trách lại còn vay quá nhiều vốn ngắn hạn trong các năm 2011-2013 rồi nay phải lo trả nợ nhiều và đi vay với điều kiện đắt đỏ hơn.

Nguyên Lam: Thưa ông, người ta hay nói lãnh đạo là tiên liệu thì sự kiện lãnh đạo Việt Nam một mặt nói đến sức tăng trưởng mạnh để lên tới đẳng cấp lợi tức trung bình, rồi lại lo sợ là ở vào trình độ ấy thì sẽ phải huy động vốn theo những điều kiện mới. Vì vậy, xin đề nghị ông trình bày lại toàn bộ tiến trình viện trợ cho Việt Nam từ khi kinh tế xứ này được cải cách để thính giả của chúng ta nhìn thấy chặng đường đã qua và những thử thách sẽ tới.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Sau khi thật sự đổi mới kinh tế vì Liên bang Xô viết sụp đổ năm 1991 thì kể từ 1992 trở về sau, Việt Nam bắt đầu được các nước viện trợ về cả tài chính lẫn kỹ thuật hầu có thể tự túc phát triển trên nền tảng vững mạnh hơn. Về khuôn khổ viện trợ, ta chủ yếu có thể thức viện trợ phát triển chính thức ODA do 28 nước giàu mạnh tiên tiến đảm nhiệm qua các cơ quan viện trợ của họ hay qua các tổ chức tài chính quốc tế.

- Ba tiêu chuẩn viện trợ là thứ nhất chính thức, thứ hai nhắm vào mục tiêu phát triển và thứ ba là qua ngả tài chính với sự ưu đãi. Chẳng hạn như hàng năm, Việt Nam vẫn có hội nghị của các nước cung cấp viện trợ, tôi xin gọi tắt là “cấp viện”, và các định chế tài chính quốc tế, đứng đầu là Ngân hàng Thế giới, để cứu xét yêu cầu và mục tiêu của các dự án phát triển có lợi cho Việt Nam. Đấy là hình thức nâng đỡ khi Việt Nam còn nghèo và kết quả là kinh tế có tăng trưởng với lợi tức cao hơn xưa.

Nguyên Lam: Ông nói đến viện trợ tài chính với ưu đãi thì thực tế của chuyện đó là gì? Thế nào là ưu đãi và ưu đãi đến mức thế nào, thưa ông?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Một quốc gia chỉ phát triển khi thực hiện các dự án yểm trợ tăng trưởng sản xuất và các dự án này phải mất nhiều năm thực hiện mới có kết quả. Đấy là dự án xây dựng hạ tầng cơ sở vật chất như cầu đường, sông ngòi hay xã hội như trường học, nhà thương và chợ búa, v.v….

- Viện trợ kỹ thuật là tiến trình nghiên cứu từ bước kế hoạch qua chương trình đến các dự án. Viện trợ tài chính là tài trợ việc thực hiện các dự án có tính cách lâu dài. Vì vậy, người ta cho nước cầu viện vay tiền với các điều kiện dễ dãi là 1/ dài hạn, kỳ hạn đi vay có thể là ba bốn chục năm, 2/ với thời gian ân hạn dài, là trong năm bảy năm đầu thì chưa phải trả vốn mà chỉ trả lãi, và 3/ với lãi suất thấp hơn lãi suất trên thị trường, có khi chỉ là 1% một năm mà thôi. Căn cứ trên ba tiêu chuẩn ấy, người ta có thể tính ra một con số tổng hợp về mức ưu đãi, gọi là “grant element” hay “yếu tố tặng dữ”.

- Về kỹ thuật thì khi đi xin viện trợ, người ta tùy dự án mà thương thuyết tiến trình giải ngân hay tháo khoán theo nhịp độ thực hiện dự án, thương thuyết về kỳ hạn trả nợ dài hay ngắn, về thời gian ân hạn là bao lâu và lãi suất là bao nhiêu so với lãi suất trên thị trường và dự toán về lạm phát, rồi dùng một chiết khấu suất để tính ra hiện giá của cả dự án trong mấy chục năm tới và so với mệnh giá thì có số bách phân gọi là yếu tố tặng dữ hay grant element. Theo thể thức ODA thì mức tặng dữ phải trên 25% mới gọi là viện trợ. Nôm na là vay 100 bạc trong 30-40 năm mà sau cùng thì trả có 75 đồng thôi. Trong thực tế thì mức tặng dữ ấy còn cao hơn nhiều, chứ không chỉ ở khoảng 25%.

Nguyên Lam: Nguyên Lam được biết ngày xưa, ông Nghĩa đã từng thương thuyết viện trợ và là cố vấn về ngoại viện cho chính phủ Sàigòn trước năm 1.9.7.5. nên đã quen với cách tính đó. Sau này, ông còn là tư vấn kinh tế cho các tổ chức cấp viện đi thực hiện dự án phát triển cho các nước cầu viện cho nên có thể nhìn vấn đề từ hai giác độ khác nhau, ông nhận xét thế nào về tiêu chuẩn ưu đãi của viện trợ?


Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin có bốn nhận xét sau đây về chuyện khá phức tạp ấy.

- Thứ nhất, các nước chuyển hướng kinh tế từ chế độ cộng sản thường có tư tưởng lệch lạc, rằng sở dĩ các quốc gia cấp viện, toàn là Tây phương cả, phải viện trợ cho các nước nghèo vì ngày xưa họ là thực dân đế quốc! Vì tư tưởng lệch lạc lại nhuốm mùi đấu tranh lạc hậu ấy, người ta dễ có tinh thần vô trách nhiệm khi nhận viện trợ, coi như ăn của địch để đánh địch, thậm chí để đánh tư bản chủ nghĩa! Vô hình chung đi xin viện trợ mà chẳng khai thác được gì cho quốc gia chỉ vì lý luận hàm hồ ấy của nhiều người trong đảng.

- Thứ hai, nếu thật sự có tầm nhìn xa thì khi nhận viện trợ là phải nghĩ đến ngày hết cần viện trợ càng sớm càng hay. Không thể nào là quốc gia phú cường khi cứ ngửa tay cầu viện và xin được ưu đãi càng nhiều và càng lâu càng hay. Với tinh thần tự chủ đó thì trong vài chục năm cả nước cần thắt lưng buộc bụng để phát triển hầu ra khỏi thời kỳ phải có ngoại viện. Một số quốc gia đã bước vào trình độ tiên tiến có lợi tức cao, như Nam Hàn hay Đài Loan, là nhờ đã quyết chí chấm dứt sự lệ thuộc vào ngoại viện ngay từ khi khởi phát, cất cánh.

- Thứ ba, nếu bộ máy nhà nước lại kém khả năng, là trường hợp Việt Nam, thì mức lợi tức trung bình biểu kiến ở trên vẫn che giấu khác biệt quá lớn ở dưới. Nôm na là bất công xã hội giữa thiểu số giàu có tại thành thị với đa số còn quá nghèo ở thôn quê. Rồi từ nay, kinh tế phải chật vật hơn khi cần huy động vốn cho yêu cầu rất lớn của xã hội, như Ngân hàng Thế giới mới cảnh báo gần đây. Kết cuộc thì người nghèo lại càng khó được ngân sách trợ giúp trong thời gian tới khi nhà nước đến ngày trả nợ.

- Thứ tư, việc cung cấp viện trợ chính thức với điều kiện ưu đãi là phải qua cơ chế nhà nước. Nếu bộ máy nhà nước lại thiếu liêm chính thì khoản nợ ấy dẫn đến hiện tượng mà giới kinh tế và luật pháp gọi là “món nợ ghê tởm”. Đó là khi một thiểu số có chức có quyền lại vay nợ cho lợi riêng và chất lên một núi nợ mà người dân hay đời sau phải trả. Việt Nam có gặp hiện tượng ấy với các dự án đi vay mà chẳng nghĩ đến ngày trả, điển hình là vụ Vinashin đã được báo động từ năm 2008, khi Việt Nam bắt đầu có mức lợi tức trung bình.

- Nguyên Lam: Với khoản nợ từ các nguồn viện trợ đã lên tới tám tỷ đô la Mỹ, mà đô la nay còn lên giá nên khi trả sẽ đắt hơn xưa, và mai này Việt Nam lại phải đi vay trên thị trường tự do với điều kiện đắt đỏ hơn, thưa ông, rồi tình hình rồi sẽ ra sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thật ra, Việt Nam không chỉ nợ có tám tỷ đô la thuộc diện ODA mà còn nợ gấp bội nếu đếm số nợ ưu đãi của Ngân hàng Thế giới theo thể thức IBRD và từ quỹ phát triển IDA, nay đã lên tới 13 tỷ rưỡi, và còn nợ Ngân hàng Phát triển Á châu ADB khỏang bảy tỷ đã giải ngân trong tổng số viện trợ khoảng 14 tỷ đã nhận từ năm 1993 cho tới sau này.

- Từ chín năm trước, Hà Nội đã xin Ngân hàng Thế giới cho thêm một giai đoạn chuyển đổi tiệm tiến mà sau đấy vẫn không chuẩn bị gì và tiếp tục đi vay vô tội vạ. Khi ấy, ta phải tự hỏi là những ai đã vay vô tội vạ, từ cấp trung ương đến địa phương, từ các tập đoàn kinh tế nhà nước đến các doanh nghiệp được gọi là quả đấm thép nay chìm trong nợ? Tôi trở lại hình ảnh của đứa trẻ, khi chập chững biết đi thì thể nào cũng có lúc ngã. Lúc đó đã tới và là lúc này, khi Việt Nam sẽ hết được vay Ngân hàng Thế giới theo quy chế viện trợ từ Tháng Bảy năm 2017 rồi hết được Ngân hàng Phát triển Á châu cấp vốn vay ưu đãi từ cuối năm 2018.

Nguyên Lam: Thưa ông, câu hỏi chính mà Nguyên Lam cho rằng nhiều người quan tâm là rồi đây tình hình sẽ ra sao khi Việt Nam hết được vay tiền theo điều kiện ưu của 25 năm vừa qua?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi cho rằng tất nhiên tình hình sẽ khó khăn hơn trước, nhưng mọi người từ trên chí dưới đều phải ý thức được điều ấy mà tiến hành hai chương trình cải cách.

- Thứ nhất, về hành chính công quyền thì phải gia tăng biện pháp kiểm soát để khỏi gây thêm vấn đề. Cụ thể là từ trung ương đến địa phương, phải có chế độ giám sát và kiểm tra chặt chẽ hơn và Nhà nước phải xác nhận trách nhiệm giải trình ngân sách, dùng bao nhiêu cho việc gì. Nhà nước không thể đại diện người dân đi vay tiền cho tay chân của nhà nước làm việc khuất tất rồi bắt dân trả nợ.

- Thứ hai, trong kế hoạch cải cách doanh nghiệp, là cải tổ hệ thống doanh nghiệp nhà nước, thì phải đặt ra yêu cầu tư nhân hóa, mà Hà Nội gọi là “cổ phần hóa”, là bán tài sản của xí nghiệp quốc doanh lấy tiền về trả nợ và đồng thời mở ra không gian sinh hoạt cho tư doanh sớm thoát khỏi cảnh ngộ “chết lâm sàng” như hiện nay.

- Lời kết ở đây là nên rút tỉa bài học của 25 năm đi xin ngoại viện: viện trợ là con dao hai lưỡi, nó chẳng giúp gì cho việc xóa đói giảm nghèo nếu nhà nước thiếu năng lực hành chính, bộ máy quản lý lại không liêm khiết và chẳng chịu trách nhiệm gì trước quốc dân. Một trong các dự án viện trợ đầu tiên cho Việt Nam là cải cách hành chính, được đề xướng từ năm 1992 mà chẳng có kết quả xứng đáng chỉ vì vai trò quá lớn của đảng và các đảng viên trong bộ máy nhà nước. Không có pháp quyền nhà nước thì người dân chỉ có quyền đi trả nợ cho tay chân của nhà nước.

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á châu Tự do xin cảm tạ chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân tích này.

Ý kiến bạn đọc
06/04/201612:47:03
Khách
Dù cho VN có được vay nợ theo điều kiện viện trợ chính thức hoặc vay theo điều kiện thị trường thì cũng vẫn chẳng thay đổi gì vì tất cả đều được Đảng CSVN kiểm soát chặt chẽ để chấm mút, đục khoét cho bằng hết, etc. rồi lại muối mặt đi xin viện trợ. Cuối cùng là "thằng" dân lãnh đủ.

Hơn 40 năm rồi mà lợi tức hàng năm của một người VN chỉ lên tới mức trung bình là $1,910.51 đủ để cho thấy sự "Thành Công" của Đảng CSVN trong việc lèo lái quốc gia.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chỉ ba tháng sau khi Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ lên cấp cao nhất trong hệ thống phân cấp ngoại giao trong chuyến thăm của Tổng thống Biden, người ta thấy Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đã trở thành nhà lãnh đạo thế giới mới nhất tăng cường quan hệ với Việt Nam với chuyến thăm Hà Nội trong tuần này...
Chuyến thăm Việt Nam hai ngày của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đã để lại nhiều hệ lụy cho nhân dân Việt Nam hơn bao giờ hết. Bằng chứng này được thể hiện trong Tuyên bố chung ngày 13/12/2023 theo đó họ Tập thay quan điểm “cộng đồng chung vận mệnh” bằng “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai” cho hai nước...
Sự ra đi của nhà tư tưởng và thực hành xuất sắc về chính sách đối ngoại của Mỹ đánh dấu một kỷ nguyên kết thúc. Trong suốt sự nghiệp lâu dài và có ảnh hưởng phi thường của mình, Henry Kissinger đã xây dựng một di sản mà người Mỹ sẽ khôn ngoan chú ý trong kỷ nguyên mới của nền chính trị cường quốc và sự xáo trộn trong toàn cầu. Thật khó để tưởng tượng rằng thế giới mà không có Henry Kissinger, không chỉ đơn giản vì ông sống đến 100 tuổi, mà vì ông chiếm một vị trí có ảnh hưởng và đôi khi chế ngự trong chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Mỹ trong hơn nửa thế kỷ.
“Tham nhũng kinh tế” ở Việt Nam đã trở thành “quốc nạn”, nhưng “tham nhũng quyền lực” do chính đảng viên gây ra để thu tóm quyền cai trị mới khiến Đảng lo sợ. Đó là nội dung đang được phổ biến học tập để đề phòng và bảo vệ chế độ do Ban Nội chính Trung ương công bố...
“Trong năm 2023 còn nhiều vấn đề đáng lo ngại, gây bất an cho xã hội. Các tội phạm trên các lĩnh vực tiếp tục gia tăng toàn quốc xảy ra 48.100 vụ phạm tội và trật tự xã hội tăng 18%.”
Việt Nam đang thương lượng mua chiến đấu cơ F-16 của Mỹ để tăng cường bảo vệ an ninh trước đe dọa ngày một lên cao của Trung Quốc ở Biển Đông. Tin này được truyền miệng ở Hoa Thịnh Đốn, tiếp theo sau chuyến thăm Việt Nam 2 ngày 10-11 tháng 9/2023 của Tổng thống Joe Biden. Tuy nhiên, các viên chức thẩm quyền của đôi bên không tiết lộ số lượng F-16 mà Việt Nam có thể mua với giá 30 triệu dollars một chiếc...
Số năm tháng tôi nằm trong tù chắc ít hơn thời gian mà nhà thơ Nguyễn Chí Thiện ngồi trong nhà mét (W.C) và có lẽ cũng chỉ bằng thời gian ngủ trưa của nhà văn Vũ Thư Hiên, ở trại Bất Bạt, Sơn Tây. Bởi vậy, sau khi đọc tác phẩm Hỏa Lò và Đêm Giữa Ban Ngày của hai ông (rồi đọc thêm Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Thung Lũng Tử Thần của Vũ Ánh, và Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp) thì tôi tự hứa là không bao giờ viết lách gì vể chuyện nhà tù, trại tù hay người tù nào cả.
Càng gần đến Đại hội đảng toàn quốc khóa XIV (2026-2031), đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) càng ra sức kiên định 4 nguyên tắc được coi là “có ý nghĩa sống còn đối với chế độ.”
Trời mưa thì buồn. Trời nắng thì vui. Mưa nhiều quá gây lụt lội, trở thành thảm cảnh. Nắng quá độ gây khô hạn, cháy mùa màng, gây đói khổ. Gọi là thiên tai. Có nghĩa thảm họa do trời gây ra. Hoặc chữ “thiên” đại diện cho thiên nhiên. Nhưng gần đây, vấn nạn khí hậu biến đổi, gây ra nhiều “thiên tai” có thể gọi lại là “thiên nhân tai,” vì con người góp phần lớn tạo ra khốn khổ cho nhau. “Thiên nhân tai,” nghe lạ mà có đúng không? Nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu là hiệu ứng nhà kính. Một số loại khí trong bầu khí quyển bao quanh trái đất hoạt động hơi giống như gương kính trong nhà kính, giữ nhiệt của mặt trời và ngăn nó trở lại không gian, gây ra hiện tượng nóng lên cho toàn cầu. Nhiều loại khí nhà kính này xuất hiện một cách tự nhiên, nhưng các hoạt động của con người đang làm tăng nồng độ của một số loại khí này trong khí quyển, cụ thể là: Cacbon dioxit (CO2), khí mê-tan, nitơ oxit, khí florua
Tuy lịch sử không nói đến, nhưng nếu chịu khó lục lọi đây đó, người ta sẽ tìm ra một giai thoại khá thú vị về việc bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam được Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc trong buổi lễ trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trường Ba Đình) ngày 2 tháng 9 năm 1945. Theo tường thuật của nhà báo Hồng Hà trên báo Cứu Quốc của Việt Minh, ông Nguyễn Hữu Đang là người đọc chương trình buổi lễ và giới thiệu Chính phủ Lâm thời cùng chủ tịch Chính phủ đọc Tuyên ngôn Độc lập. Ông Nguyễn Hữu Đang là Trưởng ban Tổ chức Lễ đài, ông chính là người đứng trước micro giới thiệu: “Thưa đồng bào... Đây là Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh.” Nói xong, ông lùi lại, nhường micro cho Hồ Chí Minh.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.