BÀ HUYỆN THANH QUAN: NGUYỄN THỊ HINH
(1805 - 1848)
.
Bà huyện Thanh Quan tên thật Nguyễn Thị Hinh, quê làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Cha là Nguyễn Lý đỗ tiến sĩ năm 1783, đời Lê Hiển Tông. Bà theo học danh sĩ Phạm Quí Thích.
Gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan, vì chồng bà là ông Lưu Nghị (1804-1847), người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, đỗ cử nhân năm 1821, thời vua Minh Mệnh, từng làm tri huyện Thanh Quan.
.
Năm 1839, bà được vua Minh Mạng bổ vào triều làm Cung trung Giáo tập, để dạy học cho Công chúa và các cung nhân. Có một hôm, vua viết hai chữ “Phúc Thọ”, tặng sinh nhật một vị quan trong triều. Vua hỏi bà huyện chữ ấy viết thế nào?. Bà khen: “Phúc tối hậu, Thọ tối trường” (Phúc rất dày, Thọ rất dài). Ban đầu, vua nghĩ chưa hiểu ý. Khi nhìn kỹ, vua bèn mỉm cười, vì vua viết chữ Phúc béo phục phịch và chữ Thọ dài lêu đêu. Bà huyện tuy khen vua nhưng ngầm chê chữ viết của vua không đẹp, thật khéo léo và văn vẻ.
.
Chuyện kể: Quan huyện Thanh Quan là Lưu Nghị đi vắng, có một cô tên là Nguyễn Thị Đào, đệ đơn xin được ly dị chồng để lấy chồng khác vì bị chồng ruồng bỏ. Bà huyện Thanh Quan đã thay chồng phê đơn bằng mấy câu thơ:
“Phó cho con Nguyễn Thị Đào
Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai?
Chữ rằng: Xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già!”
Ông huyện Thanh Quan về nhà hay chuyện, tuy đồng ý lối giải quyết của bà, nhưng sợ quan trên quở trách nên bảo bà từ nay không được tự tiện xử kiện như vậy nữa.
.
Tuy thế, lần khác ông huyện đi vắng, có một ông Cống mới đỗ, đệ đơn xin mổ trâu để đãi dân làng. Nhưng lúc bấy giờ cần có trâu để cày, triều đình đã ban lệnh không được mổ trâu. Bà Huyện lại cầm bút tự phê vào đơn câu thơ:
“Người ta thì chẳng được đâu
Ừ, thì ông Cống làm trâu thì làm”
Ông Cống xem thơ, thấy bà huyện đã hóm hỉnh chơi xỏ mình “ông Cống làm trâu thì làm”. Nhưng đơn xin mổ trâu coi như đã được chấp thuận nên ông cảm ơn và vui vẻ ra về.
.
Thơ văn của Bà, hiện nay chỉ còn 7 tác phẩm, đa số bị thất lạc, các tác phẩm này là thể thơ thất ngôn bát cú: Thăng Long hoài cổ, Qua chùa Trấn Bắc, Chiều hôm nhớ nhà, Tức cảnh chiều thu, Cảnh đền Trấn Võ, Cảnh Hương Sơn.Tác phẩm được người đời nhắc nhở nhiều nhất là “Qua Đèo Ngang”: Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta!.
.
Đến năm 1847, thì chồng của bà mất, lúc ông 43 tuổi, bà xin thôi việc ở triều đình rồi dẫn 4 người con nhỏ từ Huế về quê ở làng Nghi Tàm ở vậy nuôi con cho đến hết đời.
.
*- Thiết nghĩ: Thể thơ “thất ngôn bát cú” số chữ, số câu có hạn, niêm và đối rạch ròi; thi nhân phải diễn đạt, cô đọng sao cho thành bài ngắn gọn, súc tích. Thơ bà huyện Thanh Quan súc tích có thừa, số lượng không nhiều nhưng mỗi bài thơ như một viên ngọc tốt đã được người thợ tài hoa gọt giũa mượt mà.
Bà dùng từ khéo léo, sâu sắc, đối rất chỉnh, lời thơ nhẹ nhàng, ý thơ đoan trang. Thơ bà tả cảnh như một bức tranh thủy mặc. Tình cảm của bà trong thơ vấn vương đậm đà về quá khứ vàng son đã mất. Do đó, người ta gọi bà là “nhà thơ hoài cổ”.
GS. Dương Quảng Hàm cảm mộ: "Những bài thơ Nôm của bà phần nhiều là tả cảnh, tả tình, nhưng bài nào cũng hay và tỏ ra bà là một người có tính tình đoan chính, thanh tao, một người có học thức thường nghĩ ngợi đến nhà, đến nước. Lời văn rất trang nhã, điêu luyện”.
.
Cảm bội: Bà Huyện Thanh Quan
.
Bà Huyện Thanh Quan, bậc lạ thường!
Hồn thơ thanh thoát, mến quê hương!
Văn chương nghiền ngẫm lời lưu loát
Hoài cổ, nỗi niềm luống vấn vương!
.
Nguyễn Lộc Yên
.
.
Gửi ý kiến của bạn