Hôm nay,  

Đinh Cường, Nghệ Thuật Là Cứu Rỗi, Kỷ Niệm Là Đam Mê

22/01/201600:01:00(Xem: 6158)

Nhắc đến hoạ sĩ Đinh Cường, khách thưởng ngoạn nghệ thuật ở miền Nam Việt Nam trong thập niên sáu mươi, bảy mươi, hầu như ai cũng biết đến ông. Phải nói khi ấy là thời hưng thịnh của ngành mỹ thuật Việt Nam. Đó cũng là thời kỳ rực rỡ cùng sự xuất hiện của Hội Hoạ Sĩ Trẻ Việt Nam (1966) với một lực lượng hùng hậu những cây cọ mang đầy nhiệt huyết trong việc khai phá và nỗ lực đi tìm cái mới. Họ chủ trương tạo ra những cơ hội gặp gỡ nhau để trao đổi những kinh nghiệm hầu hình thành những đường lối sáng tạo độc đáo trong bầu không khí sinh hoạt hội hoạ trong sạch và cởi mở.

Có thể nói lòng hăng hái phát triển nghệ thuật khơi dậy sự thử thách nơi các hoạ sĩ trẻ thúc đẩy họ đi vào những cuộc thử nghiệm các trường phái nghệ thuật khác nhau từ lập thể, dã thú, biểu hiện, đến siêu thực, trừu tượng, vô hình dung, tân hiện thực... Họ là những Trịnh Cung, Đinh Cường, Nguyên Khai, Nguyễn Trung, Hồ Thành Đức, Đỗ Quang Em, Nghiêu Đề, Lê Tài Điển, Cù Nguyễn, Nguyễn Phước, Hồ Hữu Thủ, Mai Chửng, Dương Văn Hùng, Nguyễn Lâm, Nguyễn Đồng, Hoàng Ngọc Biên, Ngy Cao Uyên, Rừng...

Đinh Cường đảm nhiệm chức vụ Ủy Viên Kiểm Soát trong Hội Đồng Quản Trị HHSTVN. Từ đó ông đã bước vào thế giới tạo hình với một vũ trụ và tấm lòng đầy thơ. Ông đã không ngừng tìm kiếm, say sưa sáng tạo và thử nghiệm nhiều thể loại, trường phái, và hoạt động cho đến phút cuối đời. Với một lượng tranh đồ sộ tới cả ngàn bức tranh, những bài viết về hội hoạ, những bài thơ về kỷ niệm cùng bạn hữu mà ông chia sẻ trong thi ca, Đinh Cường đã để lại cho người yêu mến ông vô số những tài sản tinh thần sâu sắc, đẹp đẽ và đầy ý nghĩa.

blank
Dạ Khúc chim.

Hoạ sĩ Đinh Cường tên thật là Đinh Văn Cường, sinh năm 1939, tại Thủ Dầu Một, Bình Dương. Mất ngày 7 tháng 1 năm 2016 tại Hoa Kỳ. Ông tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế năm 1963, đến năm 1964 thì tốt nghiệp giáo khoa hội hoạ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định. Ông từng sống tại Huế, Đà Lạt và Sài gòn trước khi định cư tại Hoa Kỳ. Tranh ông được triển lãm trên nhiều thành phố tại quốc nội và nhiều quốc gia khác. Thơ và bài viết của ông về hội hoạ đăng trên các tạp chí Văn Học Nghệ Thuật: Hợp Lưu, Văn, Văn Học, Thế Kỷ 21, Da Màu, Tiền Vệ...

Là một người tài hoa, với một bản năng sáng tạo mạnh mẽ, hoạ sĩ Đinh Cường xuất sắc không những trong thế giới tạo hình mà cả trong phê bình nghệ thuật. Trong lãnh vực thi ca, thơ ông cũng rất sâu sắc và đầy thi vị.

Trong khuôn khổ nhỏ hẹp của bài này, tôi chỉ xin viết về mảng hội hoạ.

Ông quen biết rộng và có nhiều bạn. Trịnh Công Sơn, người bạn thiết của ông, đã hiểu ông tường tận và đã từng nhận xét về ông như sau “Rong chơi là một thứ kinh vương giả trong tâm hồn Đinh Cường. Cứ lên đường, dù cao nguyên dù biển, là đã nghe thấy trong Cường vang lên một tiếng reo vui mãn nguyện. Đi không chỉ là sứ mệnh của đôi chân, mà đi, với Cường, là lòng ngưỡng vọng linh thiêng về một tiếng gọi.” Trịnh Công Sơn gọi ông là một lãng tử đam mê kỷ niệm.

blank
Chân dung Bùi Giáng và dê.

Những vật thể phụ trong tranh ông thường là chim và ngựa, tượng trưng cho thể động, tượng trưng cho niềm khát khao được đi và đến. Ông yêu mến những nơi đã sống, lưu luyến nhiều chốn đi qua, gìn giữ, ấp ôm kỷ niệm đẹp nào lưu lại, và thương quý, chung thuỷ với tình thân bạn hữu. Đà Lạt, Huế, Paris bàng bạc những lưu dấu thơ mộng và đẹp đẽ cũng như niềm vui, nỗi nhớ, phút thảm sầu, đều được ông sắp đặt, thể hiện lên tranh. Phần lớn những chủ đề trong tranh ông xoay quanh âm nhạc, cảnh thiên nhiên, đá, hoa, chim, ngựa, cũng như người, bạn bè, nhất là thiếu nữ. Tranh thiếu nữ của ông thường có thêm hoa, chim, ngựa và khăn choàng. Những nơi ông sống và đi qua thường lạnh nên thiếu nữ trong tranh ông có thêm khăn quàng hay đội khăn giống thiếu nữ trong tranh Thái Tuấn.

Dạ Khúc chim 5/2006(Birds evening song) Oil on canvas, 30”x40”

Bức tranh đánh mạnh vào cảm xúc người xem qua bố cục xanh của đêm. Đêm cùng trăng tấu lên một hợp âm xanh nhạt và thẫm với những cánh chim vần vũ một tiết điệu xanh buồn thảm. Vị trí khác nhau của cánh chim mang màu sặc sỡ đậu trên cành, khiến tôi liên tưởng tới những nốt nhạc trầm, bổng, cao, thấp của một tấu khúc đêm. Chim trong tranh rất nhiều khiến tôi nhớ đến hai bức tranh "Nhiều mây chim bay không nổi" và "Người và chim" mà ông vẽ để tưởng nhớ Phạm Công Thiện. Có lẽ những câu thơ trong bài “Ngày sanh của rắn” của Phạm Công Thiện đã ám ảnh ông khôn nguôi, tôi đi đông chìm / trời âm u thung lũng khô / nhiều mây chim bay không nổi. Người thiếu nữ gầy guộc, cầm hoa, trong áo dài và khăn choàng đầu. Cô có khuôn mặt, sống mũi và thân hình đều dài của một hoạ sĩ Đinh Cường chịu ảnh hưởng Modigliani như nhiều hoạ sĩ Việt Nam vào thập niên 60 - 70. Theo tôi, “Dạ khúc chim” không những đẹp mà còn sống động phát nên những âm thanh kỳ ảo của một bài ca đêm.

Nói đến phần tranh chân dung, xem hơn trăm bức chân dung ông vẽ cho những văn nghệ sĩ ông quen biết, tôi càng hiểu thêm sợi giây tình bạn kết giao của ông dài đến mực nào. Có lẽ Đinh Cường là một hoạ sĩ Việt Nam vẽ chân dung cho bạn bè nhiều nhất. Bùi Giáng và Trịnh Công Sơn là người có nhiều tranh chân dung hơn cả. Tình bạn chiếm một ngăn lớn trong trái tim và đời sống tinh thần của ông.

blank
Chân dung tự hoạ.

Chân dung Bùi Giáng và dê

Nỗi nhớ và thương Bùi Giáng đã khiến ông vẽ nhiều chân dung nhà thơ qua các thời kỳ khác nhau. Bức vẽ theo thể minh hoạ (illustration) này có lẽ không đẹp và thơ mộng bằng bức "Bùi Giáng và Dê tím hoa cà", nhưng tôi nhắc nhở đến, vì nó thể hiện một loại tranh khác mà Đinh Cường đã vẽ và có theo đuổi. Tôi rất thích tranh ông vẽ theo thể loại này, với vài nét chấm phá đơn sơ nhưng vẫn hay, vì người hoạ sĩ nắm bắt được đặc điểm và chiều sâu của điều hay vật thể mà họ muốn miêu tả.

Chỉ vài nét phác miêu tả, ai cũng nhận ra được thi sĩ họ Bùi trong bức tranh này. Khuôn mặt Bùi Giáng bên trên, nàng dê núi trắng đeo vòng hồng ngự trị bên dưới tạo cho chàng thi sĩ một nét đẹp vừa hoang dại, vừa ngộ nghĩnh của các vị thần đầu người, mình thú trong huyền thoại cổ Hy Lạp. Cái khéo tài tình của Đinh Cường khi vẽ chân dung bè bạn là ông không chỉ lột được cái thần trên khuôn mặt, mà ông còn lột được khí chất cũng như nét đặc thù sinh hoạt của họ trong cuộc sống thường nhật. Khoảng trống hẹp màu hồng phớt phía trái bức tranh tiết lộ thêm đây là em dê trắng, vòng hồng trong thơ,... Này em Đen chiếc vòng vàng tươi lắm / Này em Vàng chiếc trắng há mờ đâu / Này em Trắng chiếc hồng càng lóng lánh / Này đây em Hoa Cà hỡi! chiếc nâu... (“Nỗi lòng Tô Vũ”, thơ Bùi Giáng)

Ngoài việc vẽ chân dung cho bạn bè, Đinh Cường cũng đã vẽ vài bức chân dung tự hoạ cho mình. Mỗi bức ông vẽ theo một kiểu khác nhau theo từng thời kỳ và biến động của cuộc sống ông. Tôi chọn ra bức dư ới đây vì, theo tôi, không những nó nổi bật mà nó còn thể hiện được cá tính đặc thù của ông cũng như màu sắc và lối vẽ ông theo đuổi trong thời gian đó (2009).

Chân dung tự hoạ (Auto Potrait) Đinh Cường, 5/2009

Xem tranh Đinh Cường mà bỏ quên loạt tranh tôn giáo của ông, tôi nghĩ là một thiếu sót lớn. Ông có trên 20 bức tranh tôn giáo, phần lớn nói về Đạo Phật.

blank
Niệm (2).

Ông từng tâm sự:

“Nghệ thuật là đời sống riêng biệt, hiếm hoi. Tôi đã vẽ trong mọi hoàn cảnh, nơi chốn. Không biết để làm gì? Có lúc gần như tuyệt vọng, đôi khi thấy mình được cứu rỗi. Và tôi lại tiếp tục vẽ, tiếp tục suy nghiệm... Xin đừng bắt tôi giải nghĩa tranh. Nó hiện ra đó và tôi đã hụt hơi, mệt mỏi. Thế giới xa lạ được dựng lên từ một hồi ức hay một bắt gặp vụt đến, rồi loang dần trên mỗi khoảng không đen... Xin hãy cảm, nhớ đừng bao giờ tìm hiểu.”

Tôi đồng ý với tác giả về những lời ông bày tỏ. Tôi xem tranh ông với cảm nhận và nhận định của riêng tôi. Khách thưởng ngoạn cũng vậy, họ nhìn tranh và thấy được gì, có nghệ thuật hay không, xấu hay đẹp, kỳ quặc hoặc tuyệt vời, là tuỳ thuộc ở mắt kẻ nhìn. “Art, like beauty, is in the eye of beholder”. Nhất là tranh tôn giáo, sự thụ nhận và cảm nhận về tôn giáo mỗi người mỗi khác nên sự chọn lựa của tôi để giới thiệu với độc giả chỉ là một cảm nhận riêng tư.

Bức Niệm (2) này gây ấn tượng mạnh mẽ cho tôi. Sau đây là những gì tôi cảm nhận.

Niệm Phật là một phép tu trong Phật giáo, thuộc về Tịnh Độ Tông. Phép Niệm Phật này cũng tương tự như Phép Toạ Thiền, Niệm Hơi Thở trong phái Thiền Tông. Khi toạ thiền, “thiền giả phải thoát ra sự vướng mắc của tư tưởng, ảnh tượng, khái niệm, vì mục đích của toạ thiền là tiến đến một tình trạng vô niệm, tỉnh giác, không dung chứa một nội dung nào. Sau một giai đoạn kiên trì trong vô niệm, hành giả sẽ bỗng nhiên trực ngộ thể tính của mình, đó là tính Không, cái “thể” của vạn vật.” (theo Wikipedia).

Trung tâm bức hoạ là hai nhân vật nam và nữ, chắp tay, quay mặt đi, mỗi người một phía. Chung quanh họ là những sắc màu tượng trưng cho đất, nước, gió, lửa. Đinh Cường rất khéo léo và có chủ ý trong việc dùng màu. Những màu lạnh, xanh, nhu hoà, tượng trưng cho tính âm, ông dành cho người nữ. Những màu nóng, đỏ, cam, vàng, tính dương, người nam có nhiều. Con người của thất tình, lục dục có đủ, ông gom lại trong các sắc màu. Sau khi toạ thiền tìm được thân an, tâm không loạn và chánh niệm, thì trong phút an bình ấy cả hai nhân vật nam và nữ nhập làm một. Không có ngã, không có giới tính, không tạp niệm, và chính giữa tranh là một đoá sen trắng thơm ngát hương tinh khiết.

blank
Trăng và đá đen.

Sau cùng tôi xin chia sẻ cùng bạn đọc một loại tranh trừu tượng mà Đinh Cường đặc biệt ưa thích vì ông vẽ rất nhiều. Một số lớn các cựu hoạ sĩ thành danh Việt Nam như Nguyên Khai, Trịnh Cung, Cao Bá Minh, cũng đi vào thử nghiệm thể loại tranh này.

Bức "Trăng và Đá Đen" là một trong những sáng tác mới nhất tháng 9, năm 2015 trước lúc ông mất, nay thuộc bộ sưu tập của Dr. Ha Phan Ho.

Bức tranh hình chữ nhật với nền màu đỏ nóng chủ đạo đã khiến hai vật thể “Mảnh trăng” màu trắng và “Đá đen” nổi bật, đối xứng qua một lằn ranh mỏng mảnh màu đen, tựa như hai phía của cuộc đời, con người và thiên nhiên, tĩnh và động. Không cần biết ông vẽ gì. Chúng ta chỉ cần tưởng tượng ra một hoạ sĩ Đinh Cường đang lang thang giữa bờ biển của Great Salt Lake ở Utah là nơi ông tạo tác bức tranh này. Cát nơi đây trắng trong như thuỷ tinh và bên trên là mảnh trăng treo lơ lửng phản ảnh màu trắng của cát, của Mẹ Đất. Tình cờ ông nhặt được một hòn đá đen còn lấm tấm bụi cát trắng và mang nó về nhà làm vật lưu niệm. Người ở tuổi già thích hồi tưởng và, qua đó, tất cả ký ức đời ông sống lại. Những thăng trầm của cuộc sống, được mất, đua chen, tất bật trong cuộc đời đã trôi qua, chỉ còn lại hòn đá đen trơ gan cùng tuế nguyệt. Hòn đá lấm bụi cát đời ông giờ cũng nằm xuống bình yên, thôi lao xao, bất động.

Tôi xin thắp một nén hương, cầu nguyện cho hương hồn ông được an lạc ở cõi bình yên đời đời.

(trích Thế Giới Nghệ Sĩ số 49)

Trịnh Thanh Thủy

Tài Liệu Tham Khảo
http://dinhcuongpaintings.blogspot.com/

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một quan điểm lạc quan đang dấy lên trong hàng ngũ Lãnh đạo đảng CSVN khi bước vào năm 2024, nhưng thực tế tiềm ẩn những khó khăn chưa lường trước được...
Nếu Donald Trump giành lại được Nhà Trắng vào tháng 11, năm nay có thể đánh dấu một bước ngoặt đối với quyền lực của Mỹ. Cuối cùng, nỗi sợ hãi về tình trạng suy tàn đã khiến cho người Mỹ bận tâm kể từ thời thuộc địa sẽ được biện minh. Hầu hết người Mỹ tin rằng, Hoa Kỳ trong tình trạng suy tàn, Donald Trump tuyên bố rằng ông có thể “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Nhưng tiền đề của Trump đơn giản là sai, và các biện pháp trị liệu được ông đề xuất đặt ra mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ.
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.