*Sanskrit:
स्थितिका हि एषा सद धर्मनेत्री
प्रकृतिश्च धर्ामण सदा प्रभा[सिे]।
विहदत्ि बुद्धा द्विपदानर्ुत्तर्ा
प्रकाशतिष्िस्ति र्र्ेकिानर्॥् १०२॥
धर्मस्थितििं धर्मतनिार्िािं च
तनत्िस्थििािं लोकक इर्ार्कम्प्िार्।्
बुद्धाश्च बोधध िंपधृििीि र्ण्डे
प्रकाशतिष्िस्ति उपािकौशलर्॥् १०३॥
(सद्धर्पम ुण्डरीकसूत्रर् ्Saddharmapuṇḍarỵkastram, २
उपािकौशल्िपररििमः। 2 upyakauśalyaparivartaḥ, Buddhist
Sanskrit Texts 6)
* Tibetan:
ཆོས་ཀྱི་ཚུལ་འདྱི་རྟག་ཏུ་གནས་པ་དང་། །
ཆོས་ཀྱི་རང་བཞྱིན་རྟག་ཏུ་འོད་གསལ་བར། །
རྐང་གཉྱིས་དམ་པ་སངས་རྒྱས་རྣམས་མཁྱེན་ནས། །
ང་ཡྱི་ཐྱེག་པ་གཅྱིག་ཅྱེས་སོན་པར་འགྱུར། །
ཆོས་ཀྱི་གནས་ཉྱིད་སོན་མྱེད་ཆོས་ཉྱིད་ནྱི། །
ཆོས་ཀྱི་རང་བཞྱིན་རྟག་ཏུ་འོད་གསལ་བར། །
ས་ཡྱི་སྱིང་པོར་བྱང་ཆུབ་སངས་རྒྱས་ཏྱེ། །
ཐབས་ལ་མཁས་པ་ཤྱིན་ཏུ་སོན་པར་འགྱུར།
(དམ་ཆོས་པད་མ་དཀར་པོའྱི་མདོdam chos pad-ma dkar po'i mdo,
ཐབས་ལ་མཁས་པའྱི་ ལྱེའུ་ གཉྱིས་པ་ ནྱི་, Peking [P. No.] 0781, mdo
sna tshogs, chu, 1b1-205a5 )
Dịch Việt (theo Sanskrit, tham chiếu Tibetan):
102. Pháp nhãn này thường trú,
Luôn luôn rọi sáng tự tính (prakṛti) bằng pháp.
Biết rõ điều này,
Chư Phật, Đấng Lưỡng Túc Tối Tôn
(dvipadnamuttam) [**],
Sẽ tuyên thuyết, tán dương,
Về cỗ xe duy nhất (ekayna) này.
103. Pháp này là nguyên lý tồn tại ổn định
(dharmasthiti),
Và Pháp này điều hành theo một quy luật cố định
(dharmaniymat)
Quy luật này, là nguyên lý tồn tại bất biến
GIỚI THIỆU PHÁP TRỤ (dharmasthiti)
& PHÁP VỊ (dharmaniymat)
TRONG KINH PHÁP HOA
[Cở sở Lý tính duyên khởi, và giáo nghĩa Phật tính thường trú]
Phước Nguyên
(nityasthitṃ), ngay tại thế gian (loki
immakampym)
Nơi Bồ-đề tràng [*], chư Phật thấu suốt điều này;
Nên các Ngài bằng phương tiện quyền xảo,
Tuyên thuyết và khen ngợi (prakayiṣyanti).
*Lời bàn:
Đây không phải là một bài nghiên cứu, chỉ là ghi
lại một vài ý tưởng bất chợt, thiết nghĩ có một số vấn
đề quan trọng, xin gợi ý như sau:
Bản Hán, La-thập hiểu từ sanskrit prakṛti (tự
tính) ở đây là Phật tính, nên dịch: “Phật chủng tùng
duyên khởi.” Còn Kern hiểu prakṛti, với ý nghĩa
đương với tự tính, nên dịch là “law” (The line of the
law forms an unbroken continuity and the nature of
its properties is always manifest). Và Burnouf dịch
Pháp là: “La règle de la loi est perpétuellement stable”.
Từ cơ sở “pháp trụ và pháp vị”, Pháp Hoa đề ra
những phương tiện đi vào tri kiến của Phật hết sức
đa dạng và đặc biệt.
Từ Sanskrit dharmasthiti, Tibetan tương đương:
ཆོས་ཀྱི་གནས་, La Thập dịch là “Pháp trụ”. Từ Sanskrit
“sthiti”, có nghĩa gốc là nguyên lý; Tibetan gọi là:
གནས, nghĩa nguyên lý tồn tại, hay cũng hiểu là sự tồn
tại ổn định; Kern dịch “sthiti” là: “stability”: tính ổn
định, bền vững, …
Nguyên lý ở đây, là nguyên lý vô ngã, của Pháp
duyên khởi, nguyên lý này ở chỗ khác, Pháp Hoa còn
gọi là “vốn thường hằng tịch diệt”: “evaṃ ca
bhṣmyahu nityanirvṛt diprẳnt imi sarvadharmḥ|
Và Ta nói như vậy: tất cả pháp này, bản
lai tịch tĩnh, vốn thường hằng tịch diệt.” (Kệ 68-Bản
Phạn); hay cũng gọi là “thường trú”: “sthitik hi eṣ
sada dharmanetrỵ prakṛtiśca dharmṇa sad prabh
[sate]|” Pháp nhãn này thường trú, luôn luôn rọi
sáng tự tính bằng pháp” (Kệ 102-bản Phạn).
Từ Sansktit dharmaniymat, Tibetan tương
đương: སོན་མྱེད་ ཆོས་ཉྱིད་ནྱི་, La Thập dịch Hán là: “Pháp vị”,
từ niymat, là từ phái sinh của danh từ Niyama:
quy luật; Kết hợp với đuôi “t”, với ý nghĩa là điều
hành, vận hành. Bản Tibetan cũng hiểu từ niymat,
là nguyên vẹn, hoàn mỹ, không có rạn nứt, nên mới
dịch là “ སོན་མྱེད་”. Và Kern dịch là: “fixed rules”: quy tắc
nhất định, bất biến.
Vậy, niymat có nghĩa tính chất điều hành theo
một quy luật cố định, ở đây là quy luật duyên khởi
(pratỵtyasamutpdaṃ): “trong khi cái này tồn tại, thì
cái kia tồn tại”, tính chất này “luôn luôn rọi sáng tự
tính bằng pháp”. Cũng có thể cắt nghiã là tính chất
điều hành theo nguyên lý vô ngã, mà ý nghiã tư
tưởng không có gì khác.
Với nghiã như trên của hai từ, Pháp trụ
(dharmasthiti) và pháp vị (dharmaniymat) là hai
từ chỉ cở sở lý tính duyên khởi, và cũng là cở sở của
giáo nghĩa Phật tính thường trú, mà bài kệ 102
thuộc chính văn phẩm Phương tiện, Hán dịch của La
-thập dịch, đọc là: “thị/ pháp trụ/ pháp vị; thế gian
tướng thường trụ 是¥法@住Z法@位世¢ŠƠ相Š常í住Z”. Do kệ Hán
dịch quá súc tích, nên nhiều trường hợp những vị
dịch giảng Việt văn, đã hiểu lầm ý nghĩa của câu
này, đại khái như: “Pháp ấy trụ nơi pháp”,
v.v… Hiểu như vậy là sai lầm nghiêm trọng, mất đi
ý nghĩa nguyên ủy của nó, nguyên văn Sanskrit của
nó là: “dharmasthitiṃ dharmaniymatṃ ca”, có
xuất hiện liên từ “ca” (và), bất biến từ च ca: có giá
trị như giới từ “cùng với”, hay cũng được sử dụng
như một liên từ: và, cùng. Như vậy rõ ràng ở đây là
một cặp từ: “dharmasthitiṃ (pháp trụ) ca (và) dharmaniymat
(pháp vị)”.
Đối chiếu với bản Tây Tạng cũng dịch sát theo
văn sanskrit: “འཇྱིག་རྟྱེན་འདྱི་ན་རྟག་ཏུ་མྱི་གཡོ་ནས། ། “Pháp này là
nguyên lý hoàn mỹ (ཆོས་ཀྱི་གནས་=dharmasthiti), và
Pháp này vận hành theo một quy tắc cố định (སོན་མྱེད་
ཆོས་ཉྱིད་ནྱི་=dharmaniymat)”.
Và đem hai bài kệ này, so sánh với nội dung
trong bản Anh dịch: The Lotus of the True Law,
Kern, dịch từ bản Phạn văn Népal; và bản dịch
Pháp: Le Lotus De La Bonne Loi, do Burnouf dịch từ
nguyên bản tiếng Phạn, hai bản này có nội dung hai
bài kệ đa phần tương đồng với bản Sanskrit:
*Anh dịch:
“101. The line of the law forms an unbroken
continuity and the nature of its properties is always
manifest. Knowing this, the Buddhas, the highest of
men, shall reveal this single vehicle.
102. They shall reveal the stability of the law, its
being subjected to fixed rules, its unshakeable perpetuity
in the world, the awaking of the Buddhas on
the elevated terrace of the earth, their skilfulness.”
(Kern, H. Saddharma Pundarỵka or the Lotus of
the True Law, Oxford 1884 (Clarendon Press) Sacred
Books of the East, Vol. XXI, New York 1963 (Dover),
Delhi 1968. Translation from Sanskrit)
* Pháp dịch:
“101. La règle de la loi est perpétuellement stable,
et la nature de sesconditions est toujours lumineuse
; les Buddhas, qui sont les Meilleurs
deshommes, après lavoir reconnue, enseigneront
lunique véhicule, qui est lemien,
102. Ainsi que la stabilité de la loi, et sa perfection
qui subsisteperpétuellement dans le monde sans
être ébranlée; et les Buddhasenseigneront létat de
Bôdhi, jusquau centre de la terre, en vertu de leurhabileté
dans lemploi des moyens [dont ils disposent].”
(Burnouf, Le Lotus De La Bonne Loi, Paris, Imprimerie
Nationale, 1852. Reprint, Librairie d'Amé-
rique et d'Orient A. Maisonneuve, Paris, 1973. P.34).
Minh giải ý nghĩa này, có thể tìm thấy ở Pháp
uẩn túc luận (Đại 26, tr. 0505a): “Này các Tỷ-kheo!
Nên biết, do duyên là sinh mà có già và chết, hoặc
Phật xuất hiện, hoặc không xuất hiện, duyên khởi
như thế là pháp trụ, pháp giới”.
Và cuối cùng, để chấm dứt lời bàn, xin vay mượn
đoạn kinh ở Paccaya-sutta, S. II, p. 25: Katamo ca
bhikkhave paṭicca-samuppdo // Jtipaccaybhikkhave
jarmaraṇam uppdvTathgatnam
anuppdvTathgatnaṃ// ṭhitva sdhtu
dhammaṭṭhitatdhammaniymatidappaccayat//
“Duyên khởi là gì? Do duyên là sinh mà có già và
chết. Các Như Lai dù xuất hiện hay không xuất hiện,
giới này là thường trú, là pháp trụ, pháp vị, tức là y
tha duyên tính.”
__________________
Phụ chú:
[**] Đấng Lưỡng Túc Tối Tôn, Skt. dvipadnamuttam,
dva: hai, pad: chân, amuttam, biến cách
của अनुत्तर, anuttara: vượt trội, trên hết, vượt hẳn, tối
thắng, tối tôn, vô thượng....
[*] Bồ đề tràng, (=Đạo Tràng), Skt. Bodhimaṇḍala,
từ maṇḍala, Hán phiên âm thông dụng là mạn-đà-la
曼Ư‘羅…, có nghĩa là đàn tràng, chỗ ngồi có hình
vuông hoặc tròn, được giới hạn trong một phạm vi
nhất định, Bodhi: phiên âm là Bồ-đề, dịch là Đạo,
giác ngộ,… Thói quen hay gọi Bodhimaṇḍala là Bồ-đề
đạo tràng, như vậy là sai, dư chữ. Như vậy, Skt. Bodhimaṇḍala:
Bồ đề tràng/Đạo Tràng.
* Phạn bản La-tin:
sthitik hi eṣ sada dharmanetrỵ
prakṛtiśca dharmṇa sad prabh[sate]|
viditva buddh dvipadnamuttam
prakayiṣyanti mamekaynam||102||
dharmasthitiṃ dharmaniymatṃ ca
nityasthitṃ loki immakampym|
buddhca bodhiṃ pṛthivỵya maṇḍe
prakayiṣyanti upyakauśalam||103||
[Saddharmapuṇḍarỵka-stra, Prof.U.Wogihara and C.
Tsuchida, Romanized and Revised Text, Tokyo,
1958.]
Nguồn: Báo Chánh Pháp số 50, tháng 1 năm 2016.
www.chanhphap.us
- Từ khóa :
- Westminster
- ,
- Việt Báo
Ý kiến bạn đọc
06/01/201614:01:39
Phạm Kỳ_Khôi
Khách
Phật pháp phải nằm trong thế gian pháp. Bài viết này không thực dụng. Tác giả muốn khoe khoang kiến thức. Một bà già trầu niệm Phật không đủ nguyên câu, không biết gì về không tánh hay duyên khởi vẫn đạt được an lạc. Tác giả có thể là người tinh thông Phật pháp nhưng lại không tùy duyên thuận pháp nên đi quá xa Phật đạo.