Tản mạn về nước Đức và người nhập cư từ Syrien
.
Chúng tôi là một nhóm Bác Sĩ từng làm việc chung với nhau trong năm 1984-1985 tại Bệnh Viện Đại Học Westend Berlin. Khi đó tôi chỉ là một Bác sĩ khách ( Gastärztin ) nhưng sự giao hảo hòa hợp trong cả một Khu Bệnh Lý trong thời gian ngắn ngủi khiến cho tình đồng nghiệp gắn bó và tạo nên một mối tình thân từ trên 30 năm nay. Cứ mỗi năm chúng tôi gặp nhau khoảng ba lần. Vai chủ nhà luân phiên thay đổi theo thứ tự và chủ nhà đảm nhiệm món ăn chính và nước rượu , khách đảm nhiệm món ăn phụ. Làm chủ nhà một lần thì đưọc miễn nấu ăn lần tới nhưng phải đem hoa . Vì vậy mỗi lần gặp là chúng tôi có một bữa ăn 4 Gang , toàn là tinh hoa món lạ cầu kỳ được góp nhặt từ những các nhà hàng nổi tiếng ở Berlin hoặc các đặc sản trên thế giới qua các dịp du lịch. Buổi họp mặt rất „Đức“ vì chương trình được sắp thành văn bản , có Protokoll ghi chép thành một cuốn sổ dày cộm . Sau bữa ăn là phần văn hóa : trao đổi tin tức về những buổi hòa nhạc kịch nghệ phim ảnh đang hiện hành và đáng xem , trao đổi về văn chương sách truyện đáng đọc . Có người trong nhóm đọc trung bình 80 cuốn sách lớn mỗi năm.
.
Tối hôm qua chúng tôi lại gặp nhau tại nhà riêng một đồng nghiệp ở Kleinmachnow , vùng phụ cận sát Berlin . Chủ nhà là hai vợ chồng cùng ngành Tâm Lý Trị Liệu rất xuề xòa thân thiện. Trong khi trà dư tửu hậu thì buổi trò chuyện lái sang một đề tài đang sôi nổi ở Berlin và toàn nước Đức : vấn đề nhập cư của người Syrien.
Vì là Bác Sĩ chuyên ngành tâm lý nên chủ nhà tiếp xúc với nhiều bệnh nhân ngoại quốc và bản xứ. Điều làm rất nhiều người ngạc nhiên là chính những người Đức có gốc ngoại quốc có khuynh hướng chống người nhập cư mạnh mẽ hơn người Đức chính cống . Một người gốc Thổ Nhĩ Kỳ lo sợ trong tương lai món ăn Donner Kebab sẽ mất chất lượng và bán rẻ xuống dưới giá hiện tại. Những người khác tin rằng trong số người nhập cư có ít nhất 30% mù chữ và khó hội nhập. Ngoài ra số lượng người nhập cư cũng là một vấn đề tranh cãi .Cho đến bây giờ chính phủ Đức vẫn không giới hạn số lượng người nhập cư vào nước Đức , tạo cho người công dân Đức cảm thấy bị đe dọa đến sự an ninh và trật tự trong xã hội.
Một người đồng nghiệp khác có phòng mạch lâu năm tại vùng Neukölln , khu có rất nhiều người ngoạc quốc và đa số là từ Trung Đông , cũng cho rằng nhóm người này không muốn hội nhập nên có khi đến thế hệ thứ hai thứ ba rồi mà vẫn sống trong Ghetto , tầm suy nghĩ và phong cách văn hóa không hề giống người Đức.
.
Ngược lại thì cặp vợ chồng Becker , chồng là Bác Sĩ chuyên ngành Niệu Khoa vợ là Bác Sĩ Nội Khoa , lại cho biết họ vừa làm giấy bảo lãnh (Sponsor) cho một người Syrien đang lưu lạc tại Thổ Nhĩ Kỳ . Cả hai vợ chồng thay nhau mỗi tuần đến trại tập trung tỵ nạn ở Berlin giúp thiện nguyện : hướng dẫn tiếng Đức cho ngưòi lớn , đọc sách cho trẻ con… Họ nghĩ rằng nhóm người từ Syrien có trình độ hiểu biết và khả năng hội nhập cao hơn những nhóm người vùng Trung Đông khác. Họ cũng tin rằng với chương trình hội nhập của chính phủ Đức với 660giờ học tiếng Đức và văn hóa nước Đức thì người Syrien sau một thời gian ngắn sẽ không còn là gánh nặng cho nước Đức mà còn là một sự bổ sung tốt đẹp ( Bereicherung ) cho nước Đức.
Chồng của đồng nghiệp Barbara là Martin Jänicke , Professor nghiên cứu về ô nhiễm môi trường và là chuyên viên tư vấn cho nội các Đức , cũng đưa ý kiến về vấn đề hiếm muộn tại nước Đức tạo ra việc dân số giảm sút cả triệu người trên toàn nước Đức . Sự giảm sút dân số không ai cảm nhận rõ ( wahrgenommen ) mà chỉ thấy trước mắt nỗi lo sợ khi thấy người lạ đến quá nhiều . Martin cũng thừa nhận rằng vấn đề hướng dẫn hội nhập ngay từ đầu rất quan trọng để tránh những việc sai đường lạc lối sau này của nhóm người nhập cư như ở bên Pháp.
.
Nước Đức cũng đã sai lầm trong những thập niên 1950-1960 khi đưa người Thổ sang đây để kiến thiết nước Đức sau chiến tranh ; ngày đó với mục đích cần người lao động trong một giai đoạn nên chính phủ Đức không có chương trình hội nhập cho nhóm người này . Đến sau này họ ở lại luôn và đem gia đình sang thì quá muộn , họ tụ tập thành nhóm ở một số thành phố lớn làm ăn sinh hoạt trao đổi buôn bán với nhau mà không cần tiếng Đức . Ở Berlin tại hai quận lớn Neukölln và Kreuzberg người Thổ có nhà băng , nhà xuất nhập cảng , nhà hàng , khách sạn… riêng cho mình.
Với tư cách của một người tỵ nạn tôi cũng trao đổi ý kiến và kinh nghiệm bản thân về vấn đề hội nhập . 660 gìờ học tiếng Đức và văn hóa Đức là tương đương với thời gian 8 tháng tôi đã được học tiếng Đức tại Goethe Institut do chính phủ Đức tài trợ . Số vốn liếng văn hóa đó vẫn chưa bảo đảm được quá trình hội nhập nếu sự sinh hoạt và tiếp xúc với xã hội Đức không liên tục . Ngoài môi trường sinh hoạt lại có cả một ý chí hội nhập , một quyết định dứt khoát để thừa nhận đây là quê hương thứ hai .
.
Tại Berlin đến thời điểm này đang có khoảng 80.000 người nhập cư và trong số đó có tới 15.000 người chưa ghi danh tại các cơ quan nhập cư Đức.
Vì sự hỗn loạn trong các trại tập trung do nhiều nhóm người không cùng chủng tộc tranh dành đánh nhau , nên chính phủ Đức phải có biện pháp chia chỗ ở cho họ theo chủng tộc , tôn giáo.
Đạo Hồi là cả một vấn đề cho việc hội nhập , nhưng người Đức tin rằng sự hội nhập sẽ làm cho đạo Hồi không còn là cuồng tín mà sẽ là một đạo phái như những đạo khác trên thế giới. Niềm tin thánh thiện của người Đức hy vọng sẽ thành hiện thực để thế giới này bớt đi bạo loạn hung ác.
.
Nước Đức đang có một gánh nặng rất lớn .Là người có nguồn gốc tỵ nạn chúng ta cảm thấy phải có sự chia sẻ gánh nặng này với nước Đức.
Với quan niệm giúp người nhập cư là để trả ơn cho nước Đức , mỗi người tỵ nạn chúng ta cũng nên tự nguyện làm một điều gì trực tiếp hoặc gián tiếp nào đó cho người nhập cư.
.
Berlin 22.11.2015
BS Hoàng Thị Mỹ Lâm
.
.
Cam on Bac Si.