Hôm nay,  

Tưởng niệm Anh Bằng, Người Cuối Ga Khói

18/11/201500:00:00(Xem: 7358)

Tôi không biết tình yêu ở một người con trai tuổi mười tám đầu đời cuồng nhiệt như thế nào. Chứ riêng tôi lúc mới mười lăm, trong mắt đã bắt đầu có khói, thì tình yêu tuổi mười tám nếu bị tan vỡ, chắn chắn là một điều kinh khủng lắm. Đã mất tình yêu lại còn cách xa, đứt lìa cuống rốn, nơi chốn đầm đìa tuổi thơ và mật ngọt hoa niên, hẳn ruột gan con người phải buốt đau từng khúc. Tôi nhắc tới sự đau lòng này, chẳng qua vì khi nghe bài hát “Nỗi lòng người đi”, tôi bỗng hình dung được hình ảnh một Anh Bằng trong giòng người chen chúc vo khăn tay, nhầu nước mắt những ngày tản cư thập niên năm tư, năm lăm. Ẩn hiện trong khúc phim đen trắng quay chậm, có dáng chàng thanh niên tay đàn, tay sách, mặt mũi xác xơ, ngơ ngác trông vời tít tắp bóng người con gái mịt mờ xa chân chiều, cuối ga khói.

Tôi được biết nhạc sĩ Anh Bằng từ ngày Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ ở hải ngoại mới thành lập, mà ông là một trong các vị nhạc sĩ cố vấn lão thành. Tôi thường gọi ông bằng chú với tất cả tấm lòng quí mến như người cha. Tôi chia sẻ vui buồn đời thường và những bài viết của tôi với ông. Ông hay gởi các CD hay DVD của ông cho tôi và những dòng thư an ủi, khích lệ, góp ý về lãnh vực âm nhạc cũng như những trắng đen cuộc đời.

Một lần gặp ông, tôi hỏi ông về cảm nghĩ phút ông rời xa Hà Nội, về khắc chia tay vật vờ ánh mắt người yêu đầu đời ấy, tâm trạng ông ra sao?. Ông chỉ vào tai mình nói “Chú điếc đặc rồi, chẳng nghe được gì” Tôi lại hỏi “Chú còn nhớ bài “Nỗi lòng người đi”, còn nghe được tiếng đàn không?” Ông mỉm cười khi nghe tôi hét to. “Chú chỉ nghe được tiếng rè rè thôi”. Tôi không hỏi nữa, vì biết có hỏi cũng không nhận được câu trả lời. Nhìn nụ cười hiền lành của ông, lòng tôi dâng lên chút bùi ngùi nhưng ấm sáng nỗi niềm an lạc. Nụ cười của người đã mút xa Hà Nội hàng mấy mươi năm ấy, vẫn không xoá mờ được tiếng “khóc tơ duyên lìa tan” trong lòng người con trai mười tám Anh Bằng thưở xưa. Ngày người giã từ đêm Hà Nội, ngày gió mùa đông bắc thổi buốt má, khô môi, thông thốc rải lá khô đầy những gờ mái cong hàng phố cổ. Hai mươi mấy năm sau, người thanh niên đó đã ngũ tuần, phủ thêm một nỗi lòng mới, dứt áo ra đi xa lìa đất tổ. Hà Nội giờ là bên này của ký ức, Sài Gòn chỉ còn bên kia của hồi tưởng, tiếng đàn xưa giờ có trỗi, người nhạc sĩ cũng không còn nhận được điệu tình tang thẳm thía mịt mù.

Hơn sáu mươi năm âm nhạc, nhạc sĩ Anh Bằng đã để lại cho chúng ta rất nhiều tác phẩm nổi tiếng trong kho tàng âm nhạc. Tuy nhiên “Nỗi lòng người đi” đã khắc một dấu ấn sâu đậm và làm nên tên tuổi một Anh Bằng ở mãi trong lòng người yêu nhạc. Đối với những người Bắc di cư hầu như không ai không biết bài hát này, vì nó không chỉ là nỗi lòng riêng ông, mà còn là nỗi lòng thắm thiết của bao người đối với mảnh đất thân yêu đã sinh ra và nuôi họ lớn lên. Hà Nội không chỉ là một địa danh mà là một biểu tượng cho cái nôi văn hoá của miền Bắc Việt Nam. Xa Hà Nội là xa trời, xa đất, xa người, xa tất cả, là để lại phân nửa hình hài thân thể của chính mình.

Nỗi Lòng Người Đi/Sĩ Phú(trước 75)
https://www.youtube.com/watch?v=2SIyP_QRMmE

Không biết từ bao giờ người ta ví von cuộc đời người nghệ sĩ như kiếp con tằm, “rút ruột, nhả tơ” cho đến chết. Tôi chợt thấy cảm phục người xưa, so sánh sao mà khéo làm vậy. Hình ảnh một con tằm uốn người xoay tròn nhả tơ chung quanh mình để tự giam nhốt chính nó, trông như một vũ công múa cột. Và cứ thế nó múa vũ điệu của tằm, nhả cho đến hết tơ trong bụng mình mới thôi. Hệt như người nghệ sĩ say sưa đi tìm cái hay, cái đẹp để cống hiến cho đời. Họ mải mê sáng tác, tận tụy, vất vả theo đuổi nghiệp nhả tơ cho đến lúc sức tàn, lực kiệt. Nhạc sĩ Anh Bằng cũng vậy, suốt cuộc đời ông, từ khi trưởng thành, bắt đầu sáng tác, đến khi di cư vào Nam, di tản qua Hoa Kỳ, tới lúc nằm xuống, ông chưa từng ngơi nghỉ. Kể cả khi mất đi thính giác là tài sản quí báu nhất của một người soạn và viết nhạc, ông vẫn tiếp tục đắm say trong vũ điệu tơ tằm. ”.

Có nhiều nhạc sĩ đeo đuổi nghiệp sáng tác như một nghiệp dư, Anh Bằng ngược lại. Từ khi vào Nam phục vụ trong ngành chiến tranh tâm lý, ông hoạt động như một nghệ sĩ trong Đại Đội 2 văn nghệ, sáng tác nhạc, kịch. Ông đoạt “Giải văn học nghệ thuật toàn quốc” thời Đệ Nhất Cộng Hoà với vở kịch “Đứa con nuôi”. Sau khi giải ngũ năm 1962, ông hoạt động trong đài truyền thanh VTVN và phụ trách ban Sóng Mới. Ông thường ký nhiều tên khác nhau như Lê Minh Bằng do sự hợp tác với Lê Dinh và Minh Kỳ hay nhiều tên khác như Vũ Chương, Mạc Phong Linh, Mai Thiết Lĩnh, Mai Bích Dung, Dạ Ly Vũ, Dạ Cầm, Giang Minh Sơn, Hoàng Minh, Trần An Thanh, Tây Phố, Trúc Ly, Tôn Nữ Thụy Khương, Phương Trà, Huy Cường,Vương Đức Long v..v…Có lẽ ông thích khoác cho mình bộ áo muôn màu, đủ sắc như sự đa dạng trong tác phẩm của ông.

Ký ức Sài Gòn ngày còn bé của tôi, rất bình dị với cuộc sống trong một xóm nhỏ bình dân bùn lầy nước đọng. Ngày ấy tôi rất thích ca khúc “Nó” của Lê Minh Bằng, vì khi nghe “Nó” tôi có thể mường tượng ra thằng bé đánh giày hay ngủ trước hiên nhà tôi. “Nó” thường đánh thức tôi bằng những tràng chửi thề liên tục cùng bè bạn hằng đêm. “Nó”, của các em bé tay gầy quắt queo, xoè rộng bàn tay xin tiền ở chợ, đình, chùa, quán ăn, lề đường, góc phố. “Nó” đói lạnh, bị hắt hủi, xua đuổi, bị bọn bất lương đánh đập gây thương tật để gợi lòng thương của khách cho tiền. Ở một tia nhìn mẫn cảm của người nghệ sĩ, “Nó” đã chạm tới một góc khuyết của tâm hồn, một phía khuất của bóng tối xã hội.

Hôm nay tôi bất chợt gặp được ca khúc này trên youtube, qua giọng hát trong vắt của Hương Lan, trên nền nhạc đệm với hai nghệ sĩ kèn điệu nghệ, theo tôi, thật là tuyệt tác.

Qua phần mở đầu, hai giọng kèn đồng trễ nải và mệt mỏi, đột ngột xé nát bầu trời đêm, bằng những thanh âm chói lói mà quấn quyện, đầy u uẩn trên nền nhạc blues trầm đục buồn. Ơi! cái điệu blues âm u ngàn đời thăm thẳm như giọng hát những người da đen cùng khổ nấc lên tiếng lòng mình u uẩn.

Mẹ nó qua đời khi còn tấm nhỏ
Một chén cơm chiều nhưng lòng chưa no
Cuộc sống đói rách bơ vơ
Hỏi ai ai cho nương nhờ
Chuỗi ngày tăm tối vô bờ

Hình ảnh "chuỗi ngày tăm tối vô bờ" qua tiếng trumpet vang lên thật thê thiết, còn giọng kèn saxo xoáy thẳng vào tận cùng đau đớn bằng những nốt treo day dứt. Ca từ bài hát giản dị, chuyên chở vừa đủ nội dung cần diễn đạt đời sống một đứa bé nghèo, thiếu thốn cơ cực. Cấu trúc bài hát “A-A-B-A” rất phổ biến trong dòng nhạc Việt thời đó. Giai điệu lẫn ý tưởng hoà âm đều theo một motif(nhạc tố) rất đặc trưng của loại nhạc này. Tuy nhiên, giọng hát trong vắt của Hương Lan trên nền nhạc đệm u trầm với hai nghệ sĩ kèn điệu nghệ đã tạo được sự tương phản trong âm thanh. Hơn nữa những đoạn phối hợp bè bối quá chuẩn và quá hay của hai giọng kèn Trumpet và Saxo, thật nhịp nhàng đã đưa bài hát lên đến cao điểm tuyệt tác của nó.

Nó/ Hương Lan(trước 75)
https://www.youtube.com/watch?v=n98W0I8bPb4

Ngày còn trong nước, tuổi thơ của tôi lớn lên bằng tiếng ru vọng cổ của cô người làm, tiếng ư ử xuyên vách “Hai mùa mưa” của chị bán chè đậu kế bên nhà, mỗi lúc chị đi tắm. Chị tâm sự với tôi, chị ghiền nghe Trang Mỹ Dung nức nở bài này lắm. Sau này lớn lên, tôi cũng đồng ý với chị không ai ăn đứt được tiếng hát TMD khi trình bày bài này. Giọng hát trầm trầm ấy, nhỏ từng hạt tinh thể nước mắt vào lòng người, tưới tẳm cho những cuộc tình tan vỡ, trổ đầy trái đắng nhân sinh. Sáng tác “Hai mùa mưa” của Lê Minh Bằng đến với tôi từ đó. Thêm một lý do nữa, tôi may mắn được quen nhỏ bạn cùng trường là em gái Trang Mỹ Dung, khiến “Hai mùa mưa” đi vào trí nhớ tôi như một ký ức ấm vui. Có lần tôi ghé căn nhà nhỏ bạn trong một ngõ hẻm ở Phú Nhuận. Tôi không được may mắn gặp chị Dung, vì chị vắng nhà. Tôi chỉ được thấy TMD qua tấm hình đen trắng, chụp người thiếu nữ có nụ cười buồn mênh mông giữa tường vôi trắng.

Hai Mùa Mưa/Trang Mỹ Dung(trước 75)
https://archive.org/details/tienghattrangmydungtruoc1975

Phải nói là tác phẩm ông viết rất đa dạng, đủ mọi thể loại, cũng như thể điệu. Có một dạo tôi rất thích điệu Tango và say đắm tiếng hát Khánh Ly trong bài hát “Người thợ săn và đàn chim nhỏ”. Ca khúc này được ký tên Vương Đức Long, cũng là tên của nhóm Lê Minh Bằng, ca từ do Anh Bằng viết. Nhạc sĩ Lê Dinh kể: "Nhằm nói lên việc đối xử không mấy tốt đẹp - đôi khi hơi tàn bạo - của một vài cảnh sát viên, tuy nói là bạn dân, nhưng thường hay có thái độ hằn học, không đẹp với dân chúng, đặc biệt là người xử dụng công lộ và nhất là những phụ nữ mua gánh bán bưng... Trong óc tưởng tuợng của anh - người cảnh sát không phải là bạn dân - khi có cây súng trên tay, như người thợ săn và hà hiếp dân chúng mà anh so sánh như đàn chim, để rồi anh viết lời ca:

Một người thợ săn âm thầm mang súng lang thang vào rừng
Còn một bầy chim vô tình vẫn hót líu lo đùa chơi
Nào ngờ thợ săn đang cầm cây súng bắn lên cành cây
Chim chết chim lạc bầy...”

Riêng tôi và đa số người nghe không biết nghĩa bóng và câu chuyện liên hệ nhưng mỗi khi hát đến câu “Rồi người thợ săn âm thầm mang súng mang chim trở về, lề đường bầy chim không thù không oán, hót cho người nghe” lại thấy rưng rưng thương cảm đàn chim vô tội bị thảm sát. Ranh giới tử sinh, thiện ác, giữa cái chết của sinh vật này là cái sống còn của sinh vật kia vẫn là bài toán đố mơ hồ và tàn nhẫn chỉ có thượng đế mới có cơ may giải được. Tôi cảm nhận được nét nhân bản trong nhạc Anh Bằng như một đoá mai từ bi.

Người thợ săn và đàn chim nhỏ/Khánh Ly
https://www.youtube.com/watch?v=NqyIutwTSBE

Nhạc trữ tình của Anh Bằng đi sâu vào lòng người qua những ca khúc có nội dung thương thân trách phận, thất tình, cô đơn, buồn khổ hay xa cách. Sống trong thời ly loạn hầu hết những ca khúc của ông thấp thoáng màu áo trận của người lính chiến, của những biệt ly và lên đường như “Căn nhà ngoại ô”, Lẻ Bóng”, “Sầu lẻ bóng”, Đường khuya” hay “Nếu hai đứa mình”, “Giấc ngủ cô đơn”... Ông còn đề cao tình chiến hữu trong “Huynh đệ chi binh” hoặc vui buồn đời quân ngũ “Binh méo, cai tròn” hay hóm hỉnh như “Đánh cờ người”, tếu táo trong “Tập lái vespa” mà ban AVT thường trình diễn.

Lẻ bóng /Thanh Thúy(trước 75)
https://www.youtube.com/watch?v=8tvQnQVsr_8

Nhạc của ông không dừng lại ở tầng lớp những người bình dân mà còn ngưng đọng ở một tầng lớp chọn lọc khác, nhất là ở lãnh vực thơ phổ nhạc. Có lẽ ông rất thích thú trong dạng này. Có những bài thơ của các thi sĩ nổi tiếng đã được ông phổ nhạc khiến nhiều người mê đảo một thời như các bài “Khúc thuỵ du” của Du tử lê, “Trúc đào” của Nguyễn Tất Nhiên, “Ai bảo em là giai nhân” của Lưu Trọng Lư, “Anh biết em đi chẳng trở về” của Thái Can, “Hoa học trò” của Nhất Tuấn. Khi phổ nhạc các bài thơ, hầu hết, ông thường lấy ý, mượn ý, nhiều lắm là một hai câu và sau đó dùng ca từ riêng của mình kiểu như lối phóng tác mà nhà văn Hoàng Hải Thủy hay dùng trong tác phẩm của mình. Khi dịch lời nhạc ngoại quốc qua Việt cũng vậy, ông tạo một ngôn ngữ riêng mà vẫn giữ ý chính, như trong bài “Tình nồng cháy”, nguyên tác “Over and over”, do Cornell Haynes Jr, Jayson "KoKo" Bridges & James D. Hargrove sáng tác.

Tình nồng cháy/Ái Vân và tiếng đàn Vô Thường
https://www.youtube.com/watch?v=e6kY2ZN9r0Q

Khi di cư qua Hoa Kỳ, ông tiếp tục hoạt động âm nhạc với Trung tâm sản xuất và phát hành băng nhạc cassette Dạ Lan (1981-1990). ông còn cộng tác với Trung tâm Asia. Những nhạc phẩm ông viết sau này nói lên tâm sự, nỗi lòng hoài hương và những hình ảnh sinh hoạt hàng ngày của người con Việt sống lưu vong như “Căn gác lưu đày”, “Nước mắt quê hương”. Xúc động và phẫn khích trước thảm hoạ xâm lăng của Trung Quốc, ông hăng say sáng tác những ca khúc tích cực, rực lửa, khơi dậy lòng ái quốc, đấu tranh cho quê hương, dân tộc như “Phải lên tiếng”, “Cả nước đấu tranh”, “Hãy đứng lên”, “Tuổi trẻ Việt Nam”..v..v..

Phải lên tiếng/Hợp ca
https://www.youtube.com/watch?v=VRpjjWPP4eE

Hôm nay tôi ngồi đây viết lại những dòng tưởng niệm nhạc sĩ Anh Bằng như một nỗi nhớ, niềm thương kính với người cha, người chú hiền từ, đầy lòng nhân ái. Qua ánh nến lung linh tưởng niệm, hình ảnh người thanh niên xa Hà Nội năm nào, bỗng trở lại chấp chới đầy trời trên những khung nhạc chép giấy hoa tiên lượn bay. Bao nhiêu năm trải lòng, bấy nhiêu năm cảm xúc xôn xao góp phần xây dựng cho kim tự tháp âm nhạc Việt Nam, đáy kim tự tháp tượng trưng cho những người có nhạc được quần chúng mến mộ nhiều, cũng có tên Anh Bằng góp phần. Suốt một đời nghệ sĩ phục vụ và quay cuồng trong vòng xoáy quỹ đạo âm nhạc, có nhiều người đã phải quăng bút, gác đàn vào một góc tối nào đó vì nhiều lý do. Anh Bằng thì không, sức sáng tạo vẫn còn lấp lánh đâu đó thúc đẩy người nghệ sĩ, dù thính giác khiếm khuyết, vẫn ngồi xuống đẩy cung, đưa bậc, thơ dân gian, vần lục bát, điệu quan họ, vào làn hơi tân nhạc. Sáng tác mới “Mình ơi, em chẳng cho về” của Anh Bằng như một minh chứng. Tôi thấy được trong nhạc, ánh mắt dịu dàng nàng thiếu nữ Bắc Ninh, nụ tình lúng liếng níu kéo người đi, động lòng kẻ ở. Tôi trộm nghĩ tôi mà có phép màu quay ngược được thời gian, về lại xóm cổ Ba Mươi Sáu Phố Phường xưa, thay cô gái Hà nội của Anh Bằng, bằng mắt tình lúng liếng người con gái Bắc Ninh, ắt hẳn chàng thanh niên mười tám của “Nỗi lòng người đi” chẳng thể nào dứt áo vì câu “Mình ơi, em chẳng cho về”. Và chúng ta hẳn không có cơ hội trong đời được hát đi, hát lại những lời tha thiết cho tình yêu, cho đất cũ “Hà nội ơi, nào biết ra sao bây giờ. Ai đứng trông ai ven bờ, khua nước trong như ngày xưa”.

Trong một câu viết tình cờ tôi đọc được trên một ngôi mộ trong nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi ngày còn bé, có viết “Chỉ sự quên lãng của người ở lại, mới làm mờ hình bóng kẻ ra đi”. Có lẽ sự ra đi của ông khó mờ phai trong tâm tưởng những người từng quen biết ông, nhất là những người từng hát, từng mến mộ những ca khúc của ông.

Trịnh Thanh Thủy

Tháng 11, 2015

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.