Hôm nay,  

Tỵ nạn giáo dục: Nạn chảy máu chất xám ở Việt Nam

06/10/201500:02:00(Xem: 5384)

Trần Văn Minh dịch
(Tạp chí Diplomat - Tác giả: Kris Hartley)

Một làn sóng di dân mới đang thoát khỏi Việt Nam

Hơn hai thập niên sau cuộc di cư của “thuyền nhân” Việt Nam đạt mức cao nhất, một cuộc di cư mới lại đang diễn ra. Ngày càng có nhiều sinh viên Việt Nam ở độ tuổi đại học đang tìm kiếm bằng cấp ở nước ngoài. Những di dân mới – có thể được gọi là “book people” [đọc gần giống “boat people”, chỉ thuyền nhân vượt biển trốn khỏi chế độ CSVN trước đây – ND] – nhận biết giá trị cao của bằng cấp từ trường học ở Mỹ, Anh và Úc. Hơn nữa, nhiều người đã ở lại các nước mà họ theo học sau khi tốt nghiệp, do bị thu hút bởi các công việc lương cao, phù hợp với năng khiếu của họ. Có hai phương cách có thể đảo ngược tình trạng chảy máu tài năng này: sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp quốc nội có giá trị gia tăng cao và tiếp tục cải thiện các trường đại học quốc nội. Hai chiến lược này cũng có thể là lộ trình cho những nước đang phải đối mặt với những thách thức về di dân tương tự.

Theo Trung tâm Nghiên cứu Pew, số lượng sinh viên Việt Nam du học tại Hoa Kỳ tăng gấp 7 lần từ năm 2000 đến năm 2014 (từ 2.266 đến 16.579). Thăm dò này cho thấy rằng, hơn một phần ba số sinh viên Việt Nam ở Mỹ học về kinh doanh. Đây có phải là một bằng chứng về khả năng tệ hại của Việt Nam trong việc giáo dục những nhà lãnh đạo công nghiệp cho thế hệ kế tiếp? Trong một bài báo gần đây, một cựu bộ trưởng giáo dục Việt Nam than phiền về hệ thống giáo dục của đất nước, đã nói rằng “Giáo dục đại học thật là tệ hại. Sách giáo khoa đầy dẫy lý thuyết tẻ nhạt, không cần thiết”. Trong cùng bài báo, một nữ công chức Việt Nam và là mẹ của sinh viên du học mô tả hệ thống “toàn là thúc ép và dối trá”. Than phiền về việc học vẹt và bóp nghẹt sáng tạo vẫn thường xuyên xảy ra.

Ngoài những yếu tố lực đẩy này, những yếu tố lực kéo cũng đang khuyến khích luồng di cư của dân tị nạn giáo dục. Một số nước tích cực khuyến dụ sinh viên nước ngoài để tăng doanh thu học phí. Ví dụ, vào năm 2014, chính phủ Canada thông báo ý định tăng gấp đôi số lượng ghi danh học của sinh viên nước ngoài lên khoảng nửa triệu vào năm 2022; Việt Nam được xác định là một “thị trường ưu tiên”, cùng với Trung Quốc, Brazil và Ấn Độ. Trong một bài báo tháng 9 trên nhật báo CBC, một nhân viên tại một trường đại học ở Ottawa (không thuộc hàng 50 trường đứng đầu của Canada) đã mô tả việc tuyển dụng sinh viên nước ngoài là sự cạnh tranh rất “khốc liệt”,” dấu hiệu cho thấy nhu cầu vẫn còn nhiều, ngay cả đối với các học viện kém nổi tiếng.

Các đại học Việt Nam cũng không rút lui trong lặng lẽ. Đầu tư vào cơ sở và tuyển dụng đội ngũ giảng viên quốc tế là xu hướng phổ biến trong cạnh tranh. Một cuộc chạy đua xây dựng cơ sở đại học gần đây đã khiến các trường đại học Mỹ nhảy vào cuộc đua xây dựng ký túc xá, sân chơi thể thao, và trung tâm giải trí cho sinh viên. Nhiều phân khoa đại học hiện nay giống như các câu lạc bộ xa hoa của giới trưởng giả, thậm chí được lọt vào các loại xếp hạng mới [thay vì xếp hạng theo học vấn, có loại xếp hạng theo mức tân kỳ của cơ sở học viện]. Không chịu thua kém, Đại học FTP [đại học tư đầu tiên ở Việt Nam] ở thành phố Hồ Chí Minh vừa công bố kế hoạch cho một khuôn viên trường “xanh”, mà kiến trúc hùng vĩ của nó mang lại hình ảnh của các trường đại học giàu có nhất thế giới.

Giáo dục là vấn đề cần phải đề cập khi thảo luận về tăng trưởng kinh tế. Không một quốc gia nào muốn bị rơi vào một cuộc chiến tranh chi phí lao động rẻ, bởi vì cuộc rượt đuổi ở dưới thấp sẽ tạo ra một vị thế cạnh tranh không bền vững. Do đó năng suất cao thông qua việc phát triển kỹ năng là một chiến lược thông thường. Tuy nhiên, sản xuất [các mặt hàng] giá trị gia tăng cao có thể phải linh động như [các mặt hàng] giá trị gia tăng thấp, và người ta có thể sẽ phải chứng kiến sự cạnh tranh về đầu tư toàn cầu khi nhu cầu tìm kiếm giáo dục lan rộng. Trong nền kinh tế như Việt Nam, sản xuất công nghiệp – bất kể mức giá trị của nó – vẫn còn bị lệ thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp vào các doanh nghiệp nước ngoài. Ngay cả việc tiến lên mức thang giá trị gia tăng cũng không thay đổi thực tế rằng, nhiều việc làm trong ngành công nghiệp, bao gồm cả việc ở cấp kỹ sư, được trường đại học đào tạo, được các nhà đầu tư – chủ sở hữu nước ngoài mướn, chỉ vì lợi thế chi phí lao động rẻ. Làm thế nào một quốc gia có thể thoát ra khỏi chu kỳ giá trị gia tăng này để nhảy vọt được?

Loại sản xuất kỹ năng cao cuối cùng vẫn là công việc “dây chuyền”; chúng không phải quản trị mà cũng không phải sở hữu. Mô hình tăng trưởng kinh tế chuyển biến sẽ không xảy ra cho đến khi các phương tiện sản xuất thuộc sở hữu và quản lý của nhiều doanh nghiệp quốc nội hơn nước ngoài. Điều này không có nghĩa là các công ty nước ngoài không có phận sự tại Việt Nam. Tuy nhiên, sự gia tăng số lượng và sự cạnh tranh của các doanh nghiệp quốc nội sẽ giúp luân chuyển lợi nhuận và vốn tốt hơn vào kinh tế Việt Nam; đất nước có thể thoát ra khỏi sự phụ thuộc vào việc thuê mướn bên ngoài và hướng tới tự túc. Quan điểm này không cổ súy chủ nghĩa biệt lập và cũng không bảo hộ mậu dịch. Doanh nghiệp quốc nội mạnh hơn có thể và nên khai thác các thị trường quốc tế và đầu tư ra nước ngoài. Hủy bỏ các hạn chế thương mại và trợ cấp công nghiệp cũng sẽ giữ áp lực cạnh tranh lên các công ty để họ tiếp tục cải tiến. Cuối cùng, xây dựng năng lực cho các doanh nghiệp quốc nội phải là một nỗ lực từ dưới lên, với sự hỗ trợ của những chính sách giáo dục có chất lượng và thiên về phát triển công cộng.

Câu hỏi đặt ra là, làm thế nào giáo dục có thể góp phần để đạt tới mục tiêu này. Sinh viên Việt Nam phải có đầu óc kinh doanh, và hệ thống đại học của đất nước nên chuẩn bị đầy đủ cho họ. Sự gia tăng gần đây của các chương trình học về kinh doanh – nhiều chương trình trong các học viện tư nhân – dường như không thể làm chậm luồng di cư của người “tỵ nạn giáo dục”. Trong một bài báo năm 2013, một cựu hiệu trưởng đại học RMIT – Việt Nam, tỏ ra ngạc nhiên về số lượng sinh viên tốt nghiệp của RMIT ra mở cơ sở kinh doanh riêng. Có lẽ kiểu giáo dục Tây Phương (trong hoặc ngoài Việt Nam) thu hút những người đã có khuynh hướng kinh doanh, nhưng các kỹ năng thu thập được ở các trường đại học nước ngoài cũng có thể định hình chiến lược nghề nghiệp và triết lý kinh doanh của sinh viên theo hướng mới.

Việt Nam đã đạt được tiến bộ kinh tế đáng kể từ cuộc Đổi Mới năm 1986. Tăng trưởng sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự khéo léo và tham vọng của người dân Việt Nam. Thật vậy, Việt Nam gần đây đã tiến lên 19 bậc (tới thứ 54) trong bảng xếp hạng toàn cầu về sáng tạo của Tổ chức Tài sản Trí tuệ Thế giới. Hơn nữa, hệ thống trường trung học của nước này gần đây đã tạo sự chú ý do đứng thứ 12 về toán và khoa học trong các bài kiểm tra PISA quốc tế. Tuy nhiên, một phần đáng lo ngại về tiềm năng sáng tạo to lớn và trẻ trung của Việt Nam tiếp tục bị thua sút phương Tây.

Việt Nam phải làm việc tích cực để thúc đẩy hình ảnh hệ thống giáo dục đại học của mình, không chỉ trong bảng xếp hạng toàn cầu mà còn trong số các công dân của mình. Để cạnh tranh thành công về tài năng, các trường đại học trong nước phải tiếp tục chỉnh đốn chương trình và phong cách giảng dạy mang hình ảnh tự do hơn của các trường đại học phương Tây. Đây là những gì thị trường hiện nay đòi hỏi, và sẽ là một bước quan trọng hướng tới sự tăng trưởng kinh tế có năng lực chuyển biến.

Kris Hartley là giảng viên thỉnh giảng về Kinh tế tại Đại học Quốc gia Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh, và là một ứng viên tiến sĩ tại Trường Chính sách Công Lý Quang Diệu, Đại học Quốc gia Singapore.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Việt Nam bước vào năm Giáp Thìn 2024 với gánh nặng tham nhũng và một đội ngũ “không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức lối sống. Đó là cảnh báo của người đứng đầu đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc phỏng vấn đầu năm của Thông Tấn Xã Việt Nam...
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
“Phản động lực” mà người Đài Loan thể hiện trong cuộc bầu cử tổng thống vừa rồi khiến tôi, sau những suy nghĩ miên man về chuyện nước non, lại quay về với bài học yêu nước của thời tiểu học với câu hỏi khó, khiến nhiều học trò gác bút: “Em hãy tìm từ phản nghĩa với ‘tôn đại’.” Trung Quốc càng hung hăng đe dọa bao nhiêu, Đài Loan càng quật cường ngạo nghễ bấy nhiêu. Mà nếu Bắc Kinh ngu ngơ hay vờ vịt không biết gì đến định luật này thì, thầy nào tớ đó, Hà Nội cũng mù tịt hay giả bộ tương tự. Họặc mù tịt như thể đã hoàn toàn miễn dịch trước luật này; hoặc đóng kịch như thể không hề sống trong không gian ba chiều bình thường mà là một môi trường nào đó thiêu thiếu, cơ hồ chỉ… hai chiều rưỡi.
Tôi sinh trưởng ở Đà Lạt (Thành Phố Ngàn Hoa) nên sự hiểu biết về hoa lá cũng không đến nỗi tồi. Thế mà mãi tới bữa rồi, nhờ xem trang Trăm Hoa, mới được biết thêm về một loài hoa nữa – hoa ban: “Mùa hoa nở là lúc các cặp đôi nô nức đến thăm Tây Bắc. Hoa ban trắng tượng trưng cho tình yêu chung thủy và sự chân thành, dù tình yêu có gặp nhiều trắc trở, khó khăn thì cũng tự tin vượt qua và sẵn sàng đi đến bến bờ hạnh phúc. Các cặp đôi yêu nhau thường thề nguyện dưới gốc cây hoa ban như một minh chứng cho tình yêu thủy chung, bền chặt.”
Nhìn vào sự xuất hiện, sinh trưởng và tồn tại của chế độ cộng sản ở Việt Nam, chúng ta không thể phủ nhận đã có sự tương đồng với những thông tin tóm lược vừa nói về bệnh ung thư của con người...
Tôi tình cờ nhìn thấy hình Nguyễn Thúy Hạnh đang lơn tơn đẩy một cái xe cút kít đầy ắp bưởi (trên trang RFA) trong một cuộc phỏng vấn do Tuấn Khanh thực hiện, vào hôm 19 tháng Giêng năm 2021. Bên dưới tấm ảnh này không có lời ghi chú nào về thời điểm bấm máy nên tôi đoán có lẽ đây là lúc mà cô em đang hớn hở đến thăm vườn bưởi của họ Trịnh (ở Hòa Bình) vào “thuở trời đất (chưa) nổi cơn gió bụi”!
Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đang phải đối mặt với cuộc tranh chấp nội bộ trong kế hoạch tìm người kế nhiệm lãnh đạo khóa đảng XIV, nhiệm kỳ 2026-31. Những tranh chấp này được giữ kín để tránh hoang mang nội bộ. Chúng bộc phát ngay tại các Đại hội đảng địa phương và các ban đảng từ tháng 10 năm 2023...
Cuộc bầu cử tổng thống lần thứ 8 tại Đài Loan đã được tổ chức vào ngày 13/1 với kết quả là ông Lại Thành Đức Phó chủ tịch Đảng Dân tiến (Democratic Progressive Party, DPP) thắng cử...
Chúng ta đang làm nhân chứng cho một cuộc bầu cử kỳ quặc và đa sự chưa từng xảy ra trong lịch sử đầu phiếu ở Hoa Kỳ. Có thể nói, không chỉ lịch sử, mà rộng lớn hơn, chính là "sự cố" văn hóa chưa từng thấy. Bước vào năm 2024, sự tranh đua giữa hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ càng gay go, khốc liệt với âm mưu, độc kế, thủ đoạn, ám toán, bôi nhọ, mánh mung, để xem ai sẽ là chủ nhân của ngôi Nhà Trắng trong bốn năm tới. Tất cả những ý nghĩ, hành vi đó đều gôm vào chính sách, chiến lược và chiến thuật vận động bầu cử. Bạn đọc sẽ có dịp theo dõi các thầy bàn người Mỹ và thầy bàn người Việt (trong và ngoài nước) phong phú hóa, hư cấu hóa, ảo tưởng hóa về việc bầu cử, tạo ra câu chuyện nửa thực, nửa hư, thú vị, bất ngờ với giận dữ và thất vọng, sung sướng và buồn bã, rung đùi và cụng ly, nguyền rủa và chửi bới, vân vân. Thông thường những luận lý, âm mưu, phê phán, dự đoán đó… được mổ xẻ qua kiến thức và kinh nghiệm tây phương, nơi có hàng ngàn sách vở nghiên cứu chính trường, chính đạo,
Chúng ta đang bước vào năm bầu cử. Năm 2024 sẽ có một cuộc bầu cử có tính quyết liệt, vì các lựa chọn chắc chắn sẽ gây tranh cãi trong nội bộ cộng đồng gốc Việt, trong các gia đình người Việt, giữa các lựa chọn về cấp tiến và bảo thủ, giữa các thế hệ trẻ và già ở hải ngoại. Và chắc chắn là bầu cử tháng 11/2024 tại Hoa Kỳ sẽ ảnh hưởng tới cuộc chiến Trung Đông, cuộc chiến ở Ukraine, và ở cả Đài Loan. Tác động như thế nào, chúng ta khó đo lường hết tất cả các ảnh hưởng. Trong đó, một tác động lớn là từ tin giả, nói kiểu Mỹ là Fake News, tức là tin không thật.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.