Trang Sử Việt: Trạng Quỳnh: Nguyễn Quỳnh
Nguyễn Lộc Yên
(Lời tâm tình: Trang Sử Việt luôn mong mỏi nhúm nhen tình tự dân tộc, niềm yêu thương quê hương và giữ gìn Việt ngữ cùng văn hóa Việt. Dù vậy, người viết khi biên soạn luôn cố gắng giữ đúng theo tài liệu của người xưa. Trong bài viết về Trạng Quỳnh có những từ “nói lái” có lẽ không được trong sáng, nhưng sự thật không thể bỏ và người viết cũng mong mỏi tạo một chút không khí vui vẻ cho bạn đọc.
Mong thay - NLY)
.
TRẠNG QUỲNH: NGUYỄN QUỲNH
(1677–1748)
Nguyễn Quỳnh, còn có tên là Thưởng, hiệu Ôn Như, Điệp Hiên, song thân là ông Nguyễn Bổng và bà Nguyễn Thị Hương, quê tại làng Bột Thượng, huyện Hoằng Hoá, Thanh Hoá. Ông từng đỗ Hương cống (Cử nhân) nên gọi là Cống Quỳnh.
Ông nổi tiếng về trào lộng, hài hước nên dân gian thường gọi ông là Trạng Quỳnh mặc dù ông chưa đỗ Trạng. Năm 1695, Nguyễn Quỳnh đỗ Giải nguyên nhưng thi Hội nhiều lần bị hỏng. Triều đình bổ nhiệm ông làm giáo thụ các huyện Thạch Thất, Phúc Lộc (Sơn Tây), rồi làm huấn đạo phủ Phụng Thiên ở Thăng Long. Năm 1718, làm tri phủ Thái Bình rồi về làm Viên ngoại lang ở Bộ Lễ; sau bị giáng xuống làm Tu soạn ở Viện Hàn lâm.
Tương truyền ông và Đoàn Thị Điểm thường xướng hoạ văn thơ rất tương đắc.
Sách "Nam Thiên lịch đại tư lược sử" đã nhận xét về Trạng Quỳnh: "... Nguyễn Quỳnh văn chương nổi tiếng ở đời, nói năng kinh người, thạo quốc âm, giỏi hài hước...".
Sau đây, ghi vài mẩu chuyện ly kỳ, tiêu biểu của Trạng:
1- Thừa giấy vẽ voi: Nguyễn Quỳnh là người học thức uyên thâm nhưng xem nhẹ việc thi cử và công danh, khi làm xong bài thi Đình sớm, ngồi rảnh rỗi lại làm thơ diễu cợt:
"Văn chương phú lục đã xong rồi
Thừa giấy làm gì chẳng vẽ voi
Vẽ xuống vẽ lên nhằng nhịt giấy
Thằng nào cười tớ, nó ăn bồi"
Quỳnh làm bài thi dù rất hay nhưng do đó vẫn bị đánh rớt.
2- Bà chúa mắc lỡõm: Trong phủ chúa Trịnh có một Bà chúa, tính tình đanh đá, thường hằn học thuộc hạ, xem dân rẻ rúng. Trạng Quỳnh ghét lắm, nhân Bà chúa ra ngoài, Trạng ra trước đứng bên vũng nước lấy chân đá mấy cánh bèo chơi. Kiệu Bà chúa đi ngang, thấy lạ cho dừng kiệu, Bà chúa hỏi: "Ông làm gì kì cục vậy?". Trạng đáp: "Hôm nay ‘nắng cực’, Quỳnh ra ao ‘đá bèo’ chơi". Bà chúa nghĩ chữ nói lái ‘nắng cực’ và ‘đá bèo’, biết bị lỡm, nên thẹn mà không có lý do để trách mắng.
3- Hạch tội chúa Trịnh: Lính hầu lỡ tay làm bể cái độc bình rất quí. Chúa Trịnh giận lắm, hỏi các quan: "Chiếc độc bình quí của ta, hắn làm bể, có đáng tội chết không?". Các quan sợ sệt, thưa: "Dạ đáng chết! Dạ đáng chết!". Trạng Quỳnh từ tốn đề nghị: "Xin chúa, cho thần hài tội tên hầu này, để nó chết không còn oán trách", Chúa chấp thuận. Trạng lớn tiếng, tỏ vẻ giận dữ: "Người có 3 tội đáng chết, biết chưa?":
- Tội thứ nhất: Ngươi làm bể độc bình, nhưng giết ngươi rồi Chúa mang tiếng tiếc của giết người.
- Tội thứ hai: Giết ngươi chết rồi, sử quan sẽ ghi chép ngày này Chúa giết người chỉ vì một cái độc bình cổ.
- Tội thứ ba: Giết ngươi chết rồi, lời đồn đãi ra các nước lân bang, nước ta giết người không chính đáng sẽ coi thường Chúa của nước ta.
Hạch tội xong, Trạng hét lớn: "Đao phủ mau đem hắn ra chém". Chúa Trịnh nghe vậy lật đật ngăn lại, la to: "Thôi được rồi, tha tội chết cho nó, chỉ đánh 10 trượng thôi".
4- Mầm đá: Chúa Trịnh than với các quan: "Ta ăn đủ sơn hào hải vị, nhưng vẫn không ngon miệng, vậy biết làm sao?!". Các quan đều lo lắng sức khỏe của chúa, nhưng không biết cách nào để chúa ăn được ngon miệng. Quỳnh điềm đạm thưa: "Chúa có bao giờ ăn qua mầm đá chưa?". Chúa ngạc nhiên: "mầm đá là thứ gì vậy, ăn ngon lắm sao, để ta thử?".
Quỳnh thưa: "Nếu Chúa muốn ăn mầm đá, thì ngày mai Chúa đừng ăn gì cả và phải chờ hầm lâu lắm mới ăn được". Sáng sớm, Quỳnh đem đến một viên đá thật đẹp, bảo lính bỏ vào nồi hầm cho chín, lính lấy làm lạ, đá cứng làm sao hầm cho chín được nhưng lệnh của quan phải làm theo.
Đến trưa, chúa bụng đói cồn cào, hỏi mầm đá chín chưa?. Quỳnh lại hỏi người nấu bếp, đá mềm chưa? Người nấu bếp thưa: "Thưa chưa!". Đến quá ngọ, đá vẫn chưa mềm.
Chúa than đói quá! Quỳnh lấy cơm tương rồi nói: "Mời Chúa ăn tạm để chờ hầm mầm đá". Chúa ăn rất ngon miệng nên ngạc nhiên hỏi: "Cơn tương ở đâu ăn ngon miệng quá!".
Quỳnh thưa: "Ấy là cơm tương thường ngày của dân dã ăn", Chúa mỉm cười: "Ta hiểu rồi, khi đói thì ăn mới biết ngon".
5- Câu đối với sứ Tàu: Sứ Tàu qua VN, khi đi thuyền, Sứ trung tiện (đánh rắm), để chữa thẹn, Sứ Tàu lại hỗn láo nói: "Lôi động Nam bang" (Sấm dội nước Nam). Trạng đang giả người lái đò, đứng dậy vén quần xây mặt hướng Bắc tiểu xuống
.