Trang Sử Việt: Nguyễn Đăng Đạo
.
.
NGUYỄN ĐĂNG ĐẠO
(1651 - 1719)
Nguyễn Đăng Đạo, quê làng Bịu thuộc tỉnh Bắc Ninh. Ông là con trai Tiến sĩ Nguyễn Đăng Tuân, cháu nội Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo. Năm 1683, đậu Trạng nguyên, làm quan dưới đời Lê Hy Tông, người ta gọi ông là Trạng Bịu.
Ông đi sứ qua Tàu 2 lần, vào các năm 1687 và 1697. Một hôm, viên Hàn lâm nước Tàu đến mời sứ thần Nguyễn Đăng Đạo của Đại Việt đi ngắm cảnh trong vườn thượng uyển để thưởng trăng, ngắm hoa cùng sứ thần các nước.
Mùa xuân hoa khoe sắc, Nguyễn Đăng Đạo sánh bước cùng sứ thần các nước, đang say sưa ngắm cảnh, viên Hàn lâm cảm tác một vế câu đối: “Xuân tiêu phong nguyệt, nguyệt tân hoa sắc, phong tống hoa hương, hương sinh sắc, sắc sinh hương, hương hương sắc sắc mãn xuân tiêu, tương tư khách hứng tương tư khách”. Nghĩa là: Trăng gió đêm xuân, trăng thêm sắc cho hoa, gió đưa hương hoa, hương sinh sắc, sắc sinh hương, hương hương sắc sắc suốt đêm xuân, khách tương tư nhớ khách tương tư. Vế ra đầy ắp chất thơ, những điệu trầm bổng đầy nhạc tính, đối lại khó làm sao!
Sứ Cao Ly đối: “Tùng viện trúc mai, mai sinh long diệp, trúc hoá long chi, chi ty diệp, diệp ty chi, diệp diệp chi chi liên trùng viện, hữu tình nhân thức hữu tình nhân”. Nghĩa là: Mai trúc lầu tùng, mai trồi lá đẹp, trúc nảy cành xinh, cành liền lá, lá liền cành, lá lá sát lầu tùng, người hữu tình hiểu người hữu tình. Các quan Tàu khen: Lá cành san sát, màu xanh bát ngát đầy phòng, câu đối thật phong phú, nhưng trong thâm tâm, chưa được hài lòng lắm.
Tiếp đó, Nguyễn Đăng Đạo ứng khẩu đối lại rằng: “Hạ nhật cầm thi, thi ngụ ngã tính, cầm hòa ngã tính. Tính viên tình, tình viên tính, tính tính tình tình ngu hạ nhật; tri âm nhân thức tri âm nhân”. Nghĩa là: Đàn thơ ngày hạ, thơ ngụ tình ta; đàn hoà tâm tính, tính vươn tình, tình vươn tính, tính tính tình tình vui ngày hạ, người tri âm hiểu người tri âm. Mọi người đều tấm tắc khen: Đàn thơ giao hoà, chung đúc cả tạo hoá, từng câu từng chữ đối nhau chan chát; so với câu của ngài sứ Cao Ly, thì câu của ngài sứ Đại Việt có một sắc thái riêng, phong vị rất đặc biệt. Ôi! Quả là lời hay ý đẹp.
Nguyễn Đăng Đạo làm thêm một bài phú “Bái nguyệt” trong chớp mắt. Vua quan Tàu và các sứ thần thêm kính phục. Vua Khang Hy rất mến mộ tài của Trạng, nên phong tặng Nguyễn Đăng Đạo học vị Trạng nguyên Trung Hoa (như vậy ông là Lưỡng quốc Trạng nguyên(*))
Ông làm Thượng thư bộ lễ kiêm Đông các đại học sĩ, nhưng đời sống thanh bạch. Gặp lúc quốc gia loạn lạc, nơi quê ông, dân chúng bị mất mùa, đói khát. Vợ chồng ông đem hết của tiền dành dụm bấy lâu và nhắn nhủ những người hảo tâm cứu trợ, nhân dân cảm kích truyền tụng:
Lời Truyền tụng: Nghĩa là:
Bất hữu Trạng nguyên tiền Không có tiền Trạng giúp
Ngô dân hà dĩ an Đồng bào sống phập phồng
Bất hữu Trạng nguyên túc Không lúa Trạng nguyên cấp
Ngô dân hà dĩ dục Dân dã xác xơ trông
Tướng công chi đức Đức người chan chứa đức
Tướng công chi công Công người nhớ nhung công
Lịch vạn thế nhi bất vong Muôn đời luôn kính phục
Ông để lại tập thơ: Nguyễn Trạng nguyên phụng sứ tập (Trạng nguyên họ Nguyễn làm tập thơ lúc đi sứ)
Cảm phục: Nguyễn Đăng Đạo
Nguyễn Đăng Đạo, dạ lo lường dân
Tha thiết thương quê, xí xóa bần
Đi sứ gian nan, tròn trịa nghĩa
Đồng bào vĩnh viễn, nhớ nhung ân!
________________
(*) - Lưỡng quốc Trạng nguyên, là một danh hiệu xưng tặng cho một số Trạng nguyên của Việt Nam thời xưa, là Trạng nguyên của hai nước Việt Nam và Trung Hoa. Trong 49 vị Trạng nguyên của Việt Nam, có 3 người chính thức được xưng tặng là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”, đó là: Mạc Đĩnh Chi thời Trần Anh Tông. Nguyễn Trực thời Lê Thái Tông. Nguyễn Đăng Đạo thời Lê Hy Tông.
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn