GIANG VĂN MINH
(1573-1638)
Giang Văn Minh tự Quốc Hoa, hiệu Văn Chung, quê huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông đỗ Thám hoa năm 1628 (Mậu Thìn), đời vua Lê Thần Tông.
Năm 1630, ông được bổ nhiệm chức Binh khoa Đô cấp sự trung. Năm 1631, được phong chức Thái bộc Tự khanh.
Ngày 30 tháng 12 năm 1637, Giang Văn Minh và Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được vua Lê cử đi sứ Trung Hoa; sứ đoàn còn có: Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê. Sứ đoàn qua nhà Minh lần này là để cầu phong và tiến cống. Đến năm 1638, đoàn sứ bộ của Giang Văn Minh đến Yên Kinh (nay là Bắc Kinh).
Thời gian này, nhà Mạc trú đóng ở Cao Bằng. Nhà Minh áp dụng chính sách ngoại giao với cả nhà Hậu Lê và nhà Mạc, mục đích để nhận triều cống cả hai và nếu Lê và Mạc tiếp tục chiến tranh thì nhà Minh sẽ là ngư ông đắc lợi.
Vua Minh Tư Tông nước Tàu là Chu Do Kiểm, nêu lý do “Vì lệ cũ không có những quy định cụ thể cho việc sắc phong, do đó chỉ còn chờ tra cứu và ban sắc thư để tưởng lệ”. Minh triều không muốn công nhận sự chính thống của nhà Lê Trung Hưng và không muốn bãi bỏ việc ngoại giao với nhà Mạc.
Một sự bực tức mà nước ta cho là bị thiệt thòi và sỉ nhục, ấy là “lệ cống người vàng” cho Tàu, sau khi Bình Định Vương Lê Lợi giết Liễu Thăng; có tài liệu cho rằng do Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, sợ nhà Minh gây rối mà “cống người vàng” để đút lót. Ông Giang Văn Minh, muốn chấm dứt tệ trạng này, nên tự nghĩ ra một “khổ nhục kế”, kế này phải thực hiện giữa triều Minh, nơi hang hùm nọc rắn.
Chuyện kể: Ngày khánh thọ vua nhà Minh, đông đủ sứ giả các nước đến chúc mừng, sứ thần Đại Việt lại không đến. Vua Minh truyền thị vệ đến sứ quán hỏi nguyên nhân. Khi thị vệ đến thấy ông ôm mặt khóc, chúng đưa ông vào triều gặp vua Minh, ông sụt sùi và tâu: “Thần biết hôm nay vắng mặt là có tội, xin bệ hạ thứ cho vì hôm nay là ngày giỗ tổ của thần, mà thần xa quê không thắp được nén hương nên xót xa”. Vua Minh bật cười: “Tưởng giỗ cha, giỗ mẹ thì còn gần không nói làm gì, nhưng giỗ tổ tiên thì đã xa mấy đời, có thể miễn nghị”.
Ông thưa: “Bệ hạ dạy thật quý báu, nhưng nước Đại Việt của thần cúng người vàng, trả nợ Liễu Thăng, cũng đã xa lắm rồi mà nước thần vẫn nhớ triều cống, dám quên đâu?!”. Vua Minh ngớ người ra vì lời lẽ của sứ Đại Việt mềm mỏng mà chặt chẽ; vua phải gật đầu cho bãi bỏ lệ cống người vàng. Sau đó họ lại muốt lời, mãi đến đời vua Quang Trung, sau khi đánh tan tác 20 vạn quân Thanh xâm lược và nhờ tài hùng biện các danh sĩ: Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn mới thật sự chấm dứt tệ trạng này.
Vua Minh còn hách dịch ra câu đối: “Đồng trụ chí kim đài di lục” (Cột đồng đến nay đã rêu xanh), ý vua Minh muốn nhắc chuyện Mã Viện dựng cột đồng khắc chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”. Giang Văn Minh vì danh dự dân tộc nên thẳng thắn đối lại: “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” (Nước sông Bạch Đằng từ xưa đến giờ máu còn hồng). Câu này nhắc lại chiến công lẫy lừng của Ngô Quyền và Hưng Đạo Vương, đã giết quân Tàu ở Bạch Đằng giang đến nay máu dòng sông còn đỏ.
Vua Minh quá thẹn sinh giận, bất chấp luật lệ bang giao; cho người mổ bụng xem “sứ thần An Nam to gan đến đâu”, ngày ấy là mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Minh Tư Tông giận vì thẹn, nhưng kính trọng người khẳng khái, cho ướp xác Thám hoa Giang Văn Minh bằng bột thủy ngân và đưa thi hài về nước.
Khi về đến Thăng Long, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng bái kiến linh cữu, vua Lê truy tặng ông chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công và ban tặng câu: “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ). Rồi lo an táng trọng thể tại thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm và lập đền thờ ông ở đấy.
Cảm phục: Giang Văn Minh
Đi sứ sang Tàu, chẳng ngại ngần
Giang Văn Minh, thật vững vàng tâm
Thiết tha dân tộc, gìn son sắt
Yêu nước nồng nàn, dẫu xả thân!”
Nguyễn Lộc Yên
(1573-1638)
Giang Văn Minh tự Quốc Hoa, hiệu Văn Chung, quê huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông đỗ Thám hoa năm 1628 (Mậu Thìn), đời vua Lê Thần Tông.
Năm 1630, ông được bổ nhiệm chức Binh khoa Đô cấp sự trung. Năm 1631, được phong chức Thái bộc Tự khanh.
Ngày 30 tháng 12 năm 1637, Giang Văn Minh và Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được vua Lê cử đi sứ Trung Hoa; sứ đoàn còn có: Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê. Sứ đoàn qua nhà Minh lần này là để cầu phong và tiến cống. Đến năm 1638, đoàn sứ bộ của Giang Văn Minh đến Yên Kinh (nay là Bắc Kinh).
Thời gian này, nhà Mạc trú đóng ở Cao Bằng. Nhà Minh áp dụng chính sách ngoại giao với cả nhà Hậu Lê và nhà Mạc, mục đích để nhận triều cống cả hai và nếu Lê và Mạc tiếp tục chiến tranh thì nhà Minh sẽ là ngư ông đắc lợi.
Vua Minh Tư Tông nước Tàu là Chu Do Kiểm, nêu lý do “Vì lệ cũ không có những quy định cụ thể cho việc sắc phong, do đó chỉ còn chờ tra cứu và ban sắc thư để tưởng lệ”. Minh triều không muốn công nhận sự chính thống của nhà Lê Trung Hưng và không muốn bãi bỏ việc ngoại giao với nhà Mạc.
Một sự bực tức mà nước ta cho là bị thiệt thòi và sỉ nhục, ấy là “lệ cống người vàng” cho Tàu, sau khi Bình Định Vương Lê Lợi giết Liễu Thăng; có tài liệu cho rằng do Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, sợ nhà Minh gây rối mà “cống người vàng” để đút lót. Ông Giang Văn Minh, muốn chấm dứt tệ trạng này, nên tự nghĩ ra một “khổ nhục kế”, kế này phải thực hiện giữa triều Minh, nơi hang hùm nọc rắn.
Chuyện kể: Ngày khánh thọ vua nhà Minh, đông đủ sứ giả các nước đến chúc mừng, sứ thần Đại Việt lại không đến. Vua Minh truyền thị vệ đến sứ quán hỏi nguyên nhân. Khi thị vệ đến thấy ông ôm mặt khóc, chúng đưa ông vào triều gặp vua Minh, ông sụt sùi và tâu: “Thần biết hôm nay vắng mặt là có tội, xin bệ hạ thứ cho vì hôm nay là ngày giỗ tổ của thần, mà thần xa quê không thắp được nén hương nên xót xa”. Vua Minh bật cười: “Tưởng giỗ cha, giỗ mẹ thì còn gần không nói làm gì, nhưng giỗ tổ tiên thì đã xa mấy đời, có thể miễn nghị”.
Ông thưa: “Bệ hạ dạy thật quý báu, nhưng nước Đại Việt của thần cúng người vàng, trả nợ Liễu Thăng, cũng đã xa lắm rồi mà nước thần vẫn nhớ triều cống, dám quên đâu?!”. Vua Minh ngớ người ra vì lời lẽ của sứ Đại Việt mềm mỏng mà chặt chẽ; vua phải gật đầu cho bãi bỏ lệ cống người vàng. Sau đó họ lại muốt lời, mãi đến đời vua Quang Trung, sau khi đánh tan tác 20 vạn quân Thanh xâm lược và nhờ tài hùng biện các danh sĩ: Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn mới thật sự chấm dứt tệ trạng này.
Vua Minh còn hách dịch ra câu đối: “Đồng trụ chí kim đài di lục” (Cột đồng đến nay đã rêu xanh), ý vua Minh muốn nhắc chuyện Mã Viện dựng cột đồng khắc chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”. Giang Văn Minh vì danh dự dân tộc nên thẳng thắn đối lại: “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” (Nước sông Bạch Đằng từ xưa đến giờ máu còn hồng). Câu này nhắc lại chiến công lẫy lừng của Ngô Quyền và Hưng Đạo Vương, đã giết quân Tàu ở Bạch Đằng giang đến nay máu dòng sông còn đỏ.
Vua Minh quá thẹn sinh giận, bất chấp luật lệ bang giao; cho người mổ bụng xem “sứ thần An Nam to gan đến đâu”, ngày ấy là mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Minh Tư Tông giận vì thẹn, nhưng kính trọng người khẳng khái, cho ướp xác Thám hoa Giang Văn Minh bằng bột thủy ngân và đưa thi hài về nước.
Khi về đến Thăng Long, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng bái kiến linh cữu, vua Lê truy tặng ông chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công và ban tặng câu: “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ). Rồi lo an táng trọng thể tại thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm và lập đền thờ ông ở đấy.
Cảm phục: Giang Văn Minh
Đi sứ sang Tàu, chẳng ngại ngần
Giang Văn Minh, thật vững vàng tâm
Thiết tha dân tộc, gìn son sắt
Yêu nước nồng nàn, dẫu xả thân!”
Nguyễn Lộc Yên
- Từ khóa :
- Hà Nội
- ,
- Đại Việt
- ,
- Quang Trung
Gửi ý kiến của bạn