Hôm nay,  

Nhà Nhạc Học Trần Văn Khê

30/06/201500:00:00(Xem: 6956)

Hai bậc thầy âm nhạc tôi tri ân rất nhiều là nhà nhạc học Trần Văn Khê và nhạc sĩ Phạm Duy. Tôi được trao đổi và học hỏi với hai người tuy không liên tục nhưng trong thời gian rất dài. Nhạc sĩ Phạm Duy đã giảng giải cho tôi rất nhiều về áp dụng những thang âm dân ca Việt vào việc sáng tác ca khúc nhạc phổ thông hiện đại. Tôi đã viết về nhạc sĩ Phạm Duy trong hai bài báo “Thế Giới Ca Khúc Phạm Duy” và “Một Vài Cảm Xúc Âm Nhạc Qua Trường Ca Con Đường Cái Quan của Phạm Duy” trên báo Văn Học của Nguyễn Mộng Giác và báo Hợp Lưu của Khánh Trường trong thập niên tám muơi thế kỷ hai mươi. Trước khi hồi hương vào năm 2005 ông đã nhờ Duy Minh, con trai thứ hai của ông sao chép và cung cấp cho tôi hầu hết tác phẩm của ông để tôi hoàn tất cuốn sách về ông, trước khi bán toàn bộ tác phẩm cho nhà sản xuất Phương Nam.

Nhà nhạc học Trần Văn Khê đã đưa tôi vào con đường nghiên cứu Âm Nhạc Dân Tộc Học (Ethnomusicology) nghiêm chỉnh bằng những bài giảng qua cassette tapes, thư từ và rất nhiều tài liệu tiếng Pháp, Anh và Việt. Viết về nhà nhạc học Trần Văn Khê, tôi không biết bắt đầu từ đâu cho phải đạo. Một phần vì yêu kính ông như bậc thầy với nhiều kỷ niệm gặp gỡ riêng tư. Phần khác tôi khâm phục ông như một nhà nhạc học người Việt có tầm vóc quốc tế. Ông đã đi giảng dậy Âm Nhạc Học (Musicology) và Âm Nhạc Dân Tộc Học (Ethnomusicology) ở nhiều quốc gia trên thế giới. Phải nói thêm là ngoài sức hấp dẫn, duyên dáng khi trình bày một vấn đề âm nhạc bằng tiếng Việt, ông còn giỏi nhiều ngoại ngữ như Anh, Pháp, Đức, Hoa... Những công trình về âm nhạc trong hai lãnh vực nói trên của ông đã được nói đến trong nhiều tự điển âm nhạc quốc tế và các sách vở hàn lâm ngành Âm Nhạc Dân Tộc Học. Khiến tôi không làm sao bàn hết được công trình đồ sộ của ông. Chi bằng tôi chỉ nên nói đến những kỷ niệm riêng tư khi ông hướng dẫn tôi trong việc nghiên cứu và những lần gặp gỡ thảo luận những đề tài về Âm Nhạc Dân Tộc Học.

Khi tôi học năm cuối cùng ở trường Luật Sài Gòn (1970), vì sửa soạn đi du học tại Mỹ nên tôi hay lang thang ở hiệu sách Khai Trí đường Lê Lợi hay Xuân Thu trên đường Tự Do (nay là Đồng Khởi) mua một số sách mang theo. Tôi mua được cuốn “Dân Ca Việt Nam” của Nguyễn Hữu Ba do Bộ Quốc Gia Giáo Dục Xuất Bản năm 1962. Sang nhà sách Xuân Thu, thật may mắn tôi đã mua được cuốn sách “La Musique Vietnammiene Traditionnelle” của Giáo Sư Tiến Sĩ Trần Văn Khê do Press Universitaires de France xuất bản năm 1962. Có lẽ đây là một định mệnh. Vì cuốn sách này đã mở cho tôi một cách cửa thênh thang để tôi bước vào âm nhạc truyền thống Việt Nam một cách bài bản.

Đó cũng là luận án Tiến Sĩ Văn Chương – Âm Nhạc Học của thầy Trần Văn Khê đỗ năm 1958 tại đại học Sorbonne, Paris. Đến giờ phút này (2005) tôi đã sưu tầm được nhiều luận án tiến sĩ âm nhạc viết về nhạc truyền thống Việt Nam của người Việt lẫn người nước ngoài ở Việt Nam và ngoại quốc, tôi cũng chưa thấy công trình nào trình bày có hệ thống và tương đối đầy đủ như cuốn sách vừa nói, trừ Nhạc Sử phần “Periode Obscure” [ cần bổ túc một ít chi tiết với công trình của Lê Mạnh Thát (“Vài Tư Liệu Mới Cho Việc Nghiên Cứu Âm Nhạc Việt Nam trước năm 939” công bố năm 1970 tại Sài Gòn và tái bản năm 2001 tại Việt Nam với tựa đề “Lịch Sử Âm Nhạc Việt Nam từ thời Hùng Vương đến Lý Nam Đế”)].

Trở lại luận án Tiến Sĩ của thầy Trần Văn Khê,với 384 trang bằng tiếng Pháp, ông trình bày ba phần: Nhạc Sử Việt Nam, Nhạc Cụ Việt Nam và Những Vấn Đề Lý Thuyết. Cuốn sách này là kim chỉ nam để tôi tiếp tục sưu tầm thêm tài liệu, đào sâu vào việc nghiên cứu ba vấn đề Nhạc Sử, Nhạc Cụ và Lý Thuyết Âm Nhạc Truyền Thống Việt Nam qua các thư viện ở Mỹ, Âu Châu và Á Châu. Cuốn sách này đã dược dịch ra tiếng Việt, lưu hành nội bộ và là tài liệu để giảng dậy cho các nhạc sinh trong những nhạc viện ở Việt Nam. Tuy nhiên những tài liệu tôi có được cũng chỉ là những mảnh rời rạc của nền âm nhạc dân tộc học nếu không có sự hướng dẫn của Thầy Trần Văn Khê.

blank
Nhạc sư Trần Văn Khê (phải), và Phạm Văn Kỳ Thanh.

Ngày mười một tháng sáu năm 1988 là ngày tôi không bao giờ quên. Vì ngày ấy là tôi gặp thầy Trần Văn Khê ở San Francisco qua sự giới thiệu của một bác sĩ người Việt.

Thầy có ưu ái viết vài trang về chuyện này trong “Hồi Ký Trần Văn Khê” cuốn số năm Đãi Cát Tìm Vàng” với tựa đề nhỏ “Lấy Luật Học Nuôi Nghệ Thuật”. Thật vậy, tôi mưu sinh bằng nghề Luật Sư để có phương tiện nghiên cứu âm nhạc. Sau khi ký tên trên cuốn luận án tiến sĩ của thầy mà tôi sưu tầm được, thầy nhận tôi làm môn sinh. Tôi đã nêu rất nhiều câu hỏi về thang âm và điệu thức của nhạc truyền thống Việt Nam. Tôi cũng đưa thầy xem biểu đồ nghiên cứu của tôi đối chiếu hai hệ thống âm nhạc Tây Phương và hệ thống ngũ cung Việt Nam. Rồi tựa trên hệ thống này nghiên cứu về âm nhạc của Ca, Ngâm, Sân Khấu, Nhạc Hoà Tấu, Vũ Điệu...Mục đích cuối cùng của sự học hỏi của tôi là để sáng tác tác phẩm âm nhạc có màu sắc dân tộc. Sau khi xem xong biểu đồ thấy nói: “đời người thì ngắn mà biển học thì mênh mông, nên giới hạn lãnh vực nghiên cứu thì mới đi tới đích được”.

Sau lần hội kiến nói trên, thầy Khê tiếp tục gửi cho tôi làm nhiều kỳ những casssette tapes về Định Nghĩa Ca, Hát, Ngâm; Điệu Thức Trong Nhạc Tài Tử Miền Nam; Buổi Nhạc Thoại giữa Nhạc Sĩ Phạm Duy và Thầy Khê về một số vấn đề nhạc dân tộc; một số tài liệu âm thanh của Ca Trù, Tuồng và Hát Quan Họ, Hội Diễn Hát Ru...Có một cuốn tape độc đáo là Thầy dùng guitar phím lõm để dạo raga Singh Bhanavi của Ấn Độ. Thầy cũng khuyên tôi nên sưu tầm các nhạc khí Việt Nam như Bàu, Tranh, Đáy, Nhị, Nguyệt, Tỳ Bà, Guitar phím lõm, Sáo, Tiêu để thử nghiệm những điệu thức Việt Nam. Từ đó tôi tiếp tục tựa trên biểu đồ nghiên cứu, sưu tầm rất nhiều tài liệu viết và âm thanh về nhạc cổ truyền, dân ca của Việt Nam gồm dân tộc Kinh và 53 dân tộc anh em sinh sống trên nước Việt Nam. Ngoài ra Thầy còn khuyến khích tôi tìm nghe nhạc truyền thống và dân tộc của Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc, Lào, Kampuchia, Indonesia, Malaysia, Myanmar, Bali, Ai Cập...để mở rộng tầm hiểu biết về âm nhạc. Trong cuộc hành trình này tôi đã biết được nhiều điều thú vị như điệu “Hý” ở Quảng Châu có ảnh hưởng đến điệu Oán của Việt Nam (“Thanh Điệu Tiếng Việt Và Âm Nhạc Cổ Truyền”, Hoàng Kiều, Viện Âm Nhạc, 2002), Nhạc Lâm Ấp có ảnh hưởng đến Gagaku và Nhã Nhạc Nhật Bản (“Gagaku và Nhã Nhạc”, Văn Minh Hương, NXB Thanh Niên 2003)...

blank
Nhạc sư Trần Văn Khê (phải), và Phạm Văn Kỳ Thanh.

Tôi vừa nghiên cứu vừa thử nghiệm âm nhạc dân tộc khi sáng tác ca khúc. Mỗi lần làm được bài mới tôi đều gửi cho Thầy Khê và Nhạc Sĩ Phạm Duy. Hai vị cho ý kiến rất là chân tình như sửa đổi lỗi kỹ thuật dùng thang âm và cách sử dụng những luyến láy trong dân ca và dân nhạc.

Xem cuốn hồi ký số năm của Thầy “Đãi Cát Tìm Vàng” thì biết Thầy có nhiều học trò trên thế giới đủ mọi quốc tịch, đủ mọi trình độ, đủ mọi hoàn cảnh. Mỗi loại học trò thấy lại áp dụng phương pháp sư phạm khác nhau để họ đạt mục đích riêng biệt. Nhìn vào mười chín trang Curriculum Vitae của Thầy (Thầy gửi cho tôi năm 1989) mới thấy những công trình đồ sộ của Thầy về Âm Nhạc Học. Kể từ khi Thầy hoàn thành luận án tiến sĩ (1958) đến giờ (2015) sau 57 năm, công trình của Thầy ít ai bì kịp về phẩm lẫn lượng. Công trình này gồm kinh nghiệm nghề nghiệp, tham dự vào các tổ chức và hiệp hội âm nhạc học, các giải thưởng quôc tế về giảng dậy và trước tác, các công trình khảo cứu và ấn bản, hội viên các hội đồng khảo thí quốc tế về âm nhạc học...

Tạp chí âm nhạc “La Revue Musicale” xuất bản ở Paris đã dành ba số báo 402, 403, 404

(146 trang, xuất bản năm 1987) để giới thiệu những công trình của Thầy về Âm Nhạc Học (musicology).

Ngoài những tư liệu về giảng dậy (Anh, Pháp, Việt) thầy Khê gửi cho tôi trong thời gian học với Thầy, Thầy còn viết cho tôi một số thư riêng nhắc nhở việc nghiên cứu, cho biết sinh hoạt quốc tế của Thầy lẫn công trình mới công bố hoặc những sách Thầy mới xuất bản. Hiện giờ tôi có được một số sách của Thầy như “La Musique Vietnamienne Traditionnelle” (Press Universitaires de France – 1962), “Vietnam par Tran Van Khe, Les Traditions Musicales” (Buchet/Chastel –1967), “Âm Nhạc Đông Nam Á” (Đông Nam Á – 1986, bản chính Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1983), “Tiểu Phẩm” (NXB Trẻ-1997), “Hồi Ký Trần Văn Khê” (5 cuốn, NXB Trẻ - 2002), “Du Ngoạn Trong Âm Nhạc Truyền Thống Việt Nam” (NXB Trẻ - 2004), “Tự Truyện Trần Văn Khê” (NXB Trẻ - 2010), “Tính Dân Tộc Trong Âm Nhạc Phạm Duy & Tình Bạn Duy-Khê” (Phương Nam Book & NXB Thời Đại – 2003).

Như đã nói trên tôi không phải là nhà nghiên cứu hàn lâm để đi dậy học. Tôi học hỏi và nghiên cứu về Âm Nhạc Dân Tộc Học (Ethnomusicology) chỉ đề sáng tác (ca khúc, trường ca và nhạc không lời). Có kiến thức và kỹ thuật do các bậc thầy chỉ giáo, nghe nhạc, sưu tầm nghiên cứu tài liệu để mở rộng kiến văn, còn lại lòng yêu quê hương, nhưng quan trọng nhất là sự rung động do Thầy Khê truyền lửa cộng với những chuyến điền dã tại địa cũng giúp tôi không ít để sáng tác.

Nhửng dòng chữ này như nén hương lòng để tri ân Thầy Trần Văn Khê và chúc Thầy bình yên nơi cõi Phật.

Môn Sinh Phạm Văn Kỳ Thanh

Ngày 24 tháng 6, 2015

Los Gatos, California

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sự ra đi của nhà tư tưởng và thực hành xuất sắc về chính sách đối ngoại của Mỹ đánh dấu một kỷ nguyên kết thúc. Trong suốt sự nghiệp lâu dài và có ảnh hưởng phi thường của mình, Henry Kissinger đã xây dựng một di sản mà người Mỹ sẽ khôn ngoan chú ý trong kỷ nguyên mới của nền chính trị cường quốc và sự xáo trộn trong toàn cầu. Thật khó để tưởng tượng rằng thế giới mà không có Henry Kissinger, không chỉ đơn giản vì ông sống đến 100 tuổi, mà vì ông chiếm một vị trí có ảnh hưởng và đôi khi chế ngự trong chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Mỹ trong hơn nửa thế kỷ.
“Tham nhũng kinh tế” ở Việt Nam đã trở thành “quốc nạn”, nhưng “tham nhũng quyền lực” do chính đảng viên gây ra để thu tóm quyền cai trị mới khiến Đảng lo sợ. Đó là nội dung đang được phổ biến học tập để đề phòng và bảo vệ chế độ do Ban Nội chính Trung ương công bố...
“Trong năm 2023 còn nhiều vấn đề đáng lo ngại, gây bất an cho xã hội. Các tội phạm trên các lĩnh vực tiếp tục gia tăng toàn quốc xảy ra 48.100 vụ phạm tội và trật tự xã hội tăng 18%.”
Việt Nam đang thương lượng mua chiến đấu cơ F-16 của Mỹ để tăng cường bảo vệ an ninh trước đe dọa ngày một lên cao của Trung Quốc ở Biển Đông. Tin này được truyền miệng ở Hoa Thịnh Đốn, tiếp theo sau chuyến thăm Việt Nam 2 ngày 10-11 tháng 9/2023 của Tổng thống Joe Biden. Tuy nhiên, các viên chức thẩm quyền của đôi bên không tiết lộ số lượng F-16 mà Việt Nam có thể mua với giá 30 triệu dollars một chiếc...
Số năm tháng tôi nằm trong tù chắc ít hơn thời gian mà nhà thơ Nguyễn Chí Thiện ngồi trong nhà mét (W.C) và có lẽ cũng chỉ bằng thời gian ngủ trưa của nhà văn Vũ Thư Hiên, ở trại Bất Bạt, Sơn Tây. Bởi vậy, sau khi đọc tác phẩm Hỏa Lò và Đêm Giữa Ban Ngày của hai ông (rồi đọc thêm Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Thung Lũng Tử Thần của Vũ Ánh, và Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp) thì tôi tự hứa là không bao giờ viết lách gì vể chuyện nhà tù, trại tù hay người tù nào cả.
Càng gần đến Đại hội đảng toàn quốc khóa XIV (2026-2031), đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) càng ra sức kiên định 4 nguyên tắc được coi là “có ý nghĩa sống còn đối với chế độ.”
Trời mưa thì buồn. Trời nắng thì vui. Mưa nhiều quá gây lụt lội, trở thành thảm cảnh. Nắng quá độ gây khô hạn, cháy mùa màng, gây đói khổ. Gọi là thiên tai. Có nghĩa thảm họa do trời gây ra. Hoặc chữ “thiên” đại diện cho thiên nhiên. Nhưng gần đây, vấn nạn khí hậu biến đổi, gây ra nhiều “thiên tai” có thể gọi lại là “thiên nhân tai,” vì con người góp phần lớn tạo ra khốn khổ cho nhau. “Thiên nhân tai,” nghe lạ mà có đúng không? Nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu là hiệu ứng nhà kính. Một số loại khí trong bầu khí quyển bao quanh trái đất hoạt động hơi giống như gương kính trong nhà kính, giữ nhiệt của mặt trời và ngăn nó trở lại không gian, gây ra hiện tượng nóng lên cho toàn cầu. Nhiều loại khí nhà kính này xuất hiện một cách tự nhiên, nhưng các hoạt động của con người đang làm tăng nồng độ của một số loại khí này trong khí quyển, cụ thể là: Cacbon dioxit (CO2), khí mê-tan, nitơ oxit, khí florua
Tuy lịch sử không nói đến, nhưng nếu chịu khó lục lọi đây đó, người ta sẽ tìm ra một giai thoại khá thú vị về việc bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam được Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc trong buổi lễ trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trường Ba Đình) ngày 2 tháng 9 năm 1945. Theo tường thuật của nhà báo Hồng Hà trên báo Cứu Quốc của Việt Minh, ông Nguyễn Hữu Đang là người đọc chương trình buổi lễ và giới thiệu Chính phủ Lâm thời cùng chủ tịch Chính phủ đọc Tuyên ngôn Độc lập. Ông Nguyễn Hữu Đang là Trưởng ban Tổ chức Lễ đài, ông chính là người đứng trước micro giới thiệu: “Thưa đồng bào... Đây là Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh.” Nói xong, ông lùi lại, nhường micro cho Hồ Chí Minh.
Quán bún bò 199 là chỗ dựa tài chính vững chắc giúp ông Lâm Kim Hùng (66 tuổi, Đồng Nai) nuôi hàng chục sinh viên nghèo hiếu học. Quán của ông vừa là nơi ăn ở miễn phí vừa là nơi tạo công ăn việc làm cho các bạn kiếm thêm thu nhập…May mắn trong việc kinh doanh, quán bún bò mang lại nguồn thu nhập ổn định. Thế nhưng, vì sống một mình, nên khoảng lợi nhuận ấy quá dư giả so với cuộc sống bình thường của ông. Nhận thấy cứ để dành tiền mãi cũng chẳng được gì nên ông quyết định giúp đỡ cho những người có hoàn cảnh khó khăn.
Đảng CSVN đang rối beng lên về tình trạng cán bộ tham nhũng quyền lực, nhưng lại đùn đẩy trách nhiệm cho nhau khiến dân te tua. Tình trạng này được báo của Trung ương đảng “vạch áo cho người xem lưng” cả trong hai lĩnh vực...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.