Hôm nay,  

Hội-Nghị Việt-Phi Về Biển Đông

4/12/201507:04:00(View: 6261)

HỘI-NGHỊ VIỆT-PHI VỀ BIỂN ĐÔNG

Tâm Việt

 

            Một hội-nghị về Biển Đông rất đặc-sắc đã diễn ra ở Manila, Phi Luật Tân, vào ngày 27 tháng 3 vừa qua.  Sở dĩ ta có thể dùng chữ “đặc-sắc” ở đây là vì, đây không phải là một hội-nghị bình-thường như các chính-phủ đã đỡ đầu khá nhiều ở một số quốc gia như Việt-nam hay Mỹ trong thời-gian qua về các cuộc tranh chấp ở Biển Đông.  Đây là lần đầu tiên có một nỗ lực ở mức quốc-tế mà lại do các xã-hội dân-sự VN và Phi Luật Tân mời họp để bàn về một đề-tài nóng bỏng liên-quan đến tương-lai trước mắt của hai nước trước những bước xâm-lược ngày càng lộ liễu của Trung-Cộng.

            Là một sáng-kiến của Họp Mặt Dân Chủ và VOICE về phía VN, Hội-nghị về Biển Đông ở Manila đã không thể diễn ra được nếu không có sự tiếp tay sốt sắng của các tổ-chức dân-sự Phi như U.S. Pinoys for Good Governance (Tổ-chức Người Mỹ gốc Phi Luật Tân tranh đấu cho một Chính-quyền Tốt đẹp), DI KA Pasisiil Movement (Phong Trào Yêu Nước Phi), và Institute for Maritime Affairs and Law of the Sea (Viện nghiên cứu các vấn-đề Biển và Luật Biển) thuộc Viện Đại Học University of the Philippines.  Chính bởi có sự hưởng-ứng tốt của phía Phi Luật Tân mà hội-nghị đã được tổ-chức ngay tại Trung-tâm Bernas của Trường Luật Ateneo de Manila, nằm trong khu Rockwell thuộc Makati City, Manila.

 

Dàn diễn-giả Phi

 

            Mở đầu hội-nghị và chào mừng quan-khách là Luật-sư Trịnh Hội của VOICE, ông giới-thiệu hai đại diện Ban Tổ-chức về phía VN và Phi: G.S. Nguyễn Ngọc Bích, nhân danh Họp Mặt Dân Chủ đến tử Mỹ, và ông Roilo Golez, cựu-Cố-vấn An-ninh Quốc gia của Tổng-thống Phi Luật Tân và đã từng là một dân-biểu ở Quốc-hội Phi trong sáu nhiệm-kỳ.
blank

            Sau đó là phần trình bầy chi-tiết đi vào nội-dung của phía Phi Luật Tân.  Chính ông Roilo Golez đã mở màn với một bài diễn-thuyết đầy ắp dữ-kiện, đi kèm theo là những hình ảnh chứng minh sự xâm lấn của Trung-Cộng vào các vùng biển của Phi như bãi cạn Scarborough hay bãi san-hô Mischief chưa kể những sự xây cất của Trung-Cộng trên những đảo hay đá, bãi ngầm bãi cạn ở Trường-sa đe doạ an-ninh trong toàn vùng.  Tiến-sĩ Jay Batongbacal trình bầy về vụ kiện của Phi Luật Tân đưa Trung-Cộng ra Toà Trọng-tài ở The Hague, Hoà Lan, và những kết-quả mà ta có thể mong chờ được từ vụ kiện đó.  Cuối cùng là bà Tiến-sĩ Celia B. Lamkin nói về những cuộc vận-động của người Mỹ gốc Phi Luật Tân trong những năm qua nhằm chuyển đổi chính-sách của Hoa-kỳ về Biển Đông, nhất là đối với an-ninh quốc-phòng của Phi Luật Tân.  Tưởng cũng nên nhắc, một số cuộc vận-động bên cạnh Quốc-hội Hoa-kỳ và biểu tình của người Mỹ gốc Phi ở Washington DC, Los Angeles, San Francisco, Houston v.v. cũng đã có sự tham-dự của người Mỹ gốc Việt.

            Phần trình bầy của ba diễn-giả Phi Luật Tân được điều hợp bởi Tiến-sĩ Jeremy Barns, giám-đốc Bảo-tàng-viện Quốc gia Phi Luật Tân.

 

Sang phần Việt Nam

 

            Sang phần Việt Nam, người điều hợp là G.S. Đặng Đình Khiết, đến từ Virginia, Hoa Kỳ.  Người chính được giao trọng-trách trình bầy quan-điểm của phía Việt Nam là G.S. Nguyễn Ngọc Bích, cũng đến từ Mỹ.  Ông nêu ra những bằng-chứng chủ-quyền lịch-sử không thể chối cãi được của VN từ thế-kỷ 17, rồi đến các hiệp-định quốc-tế (San Francisco 1951, Genève 1954, Paris 1973 và Định-ước Quốc-tế năm 1973) khẳng-định chủ-quyền của VNCH trên hai quần-đảo Hoàng Trường-sa, một điều tự nó phủ-nhận công-hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, rồi đề ra mấy hướng giải-quyết hoà-bình những tranh chấp ở Biển Đông.  Thạc-sĩ Hoàng Việt, đến từ Việt Nam, nói về các phương-thức giải-quyết theo luật quốc-tế và luật biển.  Cuối cùng, Tiến-sĩ Trần Huy Bích, đến từ California, đưa ra làm chứng mấy bản-đồ của Trung-quốc có từ dưới thời nhà Minh và nhà Thanh để cho thấy là điểm cực-Nam của Trung-quốc không hề đi xa quá đảo Hải-nam.  Vào giờ ăn trưa, còn có chiếu dương-ảnh một số bản-đồ rất phong phú cửa VN và Trung-quốc do học-giả Nguyễn Đình Đầu ở Sài-gòn thu thập được và chứng minh cho thấy chủ-quyền VN thật rõ ràng.

 

Các diễn-giả quốc-tế

 

            G.S. Đoàn Viết Hoạt là người điều hợp phần các diễn-giả quốc-tế mà tên tuổi có thể nói là ai cũng nhận ra một cách dễ dàng.  G.S. Carlyle Thayer, chẳng hạn, đến từ Úc nơi ông đã dạy ở Trường Quốc Phòng Úc (Australian Defense University).  Ông đã trình bầy là cả quan-điểm của Mỹ lẫn của Úc, do không muốn bênh bên nào trong các quốc gia có tranh chấp nên thành ra cũng như “chấp nhận” sự lấn lướt của Trung Cộng ở Biển Đông (“acquiescing to China’s assertiveness in the South China Sea”).  Một nhận-định khá sâu sắc và đáng để cho chúng ta suy ngẫm!


blank

            Tiến-sĩ Ota Fumio, một cựu phó-đề-đốc Nhật-bản, đã có một bài trình bầy thật sâu sắc (theo sự đánh giá của một tham-dự-viên) vì ông là người độc-nhất trong các diễn-giả đã nối kết được các mưu-đồ của Trung-Cộng ở Biển Đông với những quan-niệm chiến-lược chiến-thuật của Tôn Tử mà chính ông đã có dịp quan-sát khi sang thăm các viện nghiên cứu chiến-lược và quốc-phòng bên lục-địa Trung-hoa.  Tóm lại, một bài viết với chiều sâu tư tưởng của phương Đông!
blank

            Trình bầy quan-điểm của Liên-hiệp Âu-châu là bà Tiến-sĩ Sophie Boisseau du Rocher thuộc Viện nghiên cứu quan-hệ quốc-tế của Pháp (Institut français des Relations internationales).  Bà cho biết quan-niệm của Âu-châu là có nhiều quan-tâm về vấn-đề hàng hải tự do cũng như chiến-lược và thương mại ở Biển Đông, tuy-nhiên Âu-châu không muốn trông thấy bất ổn nơi đây hay tranh chấp đi đến chiến-tranh.  Theo bà thì Âu-châu chỉ là một đệ-tam-nhân đáng tin cậy, nhất là nếu ta cần đến họ trong việc mưu tìm các giải-pháp hoà-bình.
blank

            Đặc-biệt đáng chú ý là một bài thuyết-trình ngắn nhưng nói về một sự-kiện ít ai biết của nhà nghiên cứu người Pháp, ông François Xavier Bonnet, đang làm việc ở IRASEC (Institut de recherche sur l'Asie du Sud-est contemporaine), Bangkok, Thái-lan.  Đó là, tất cả những phiến đá có mốc thời-gian 1902, 1912 và 1921 mà Trung-quốc và Trung-Cộng thường nêu ra như những bằng-chứng chủ-quyền của họ ở Hoàng Trường-sa đều là những đồ giả, đồ rởm: bởi ông đã tìm được ra cuộc tranh cãi ở ngay Trung-quốc về chuyện này khi có nguồn tin cho biết tất cả những phiến đá có mốc thời-gian đó đều chỉ được đưa ra các đảo vào năm 1937.

            Không có mặt nhưng cũng có bài tham-luận gởi từ Luân-đôn là ông Bill Hayton, tác-giả một cuốn sách nổi tiếng nhất về vấn-đề tranh chấp Biển Đông (cuốn The South China Sea: The Struggle for Power in Asia), theo đó các chấp-thuyết về chủ-quyền lịch-sử do phía Trung-quốc đưa ra không có giá trị.  Vì sao?  Vì ông chứng minh được phần lớn các tên Trung-quốc cho các đảo ở Trường-sa lả dịch thẳng từ tiếng Anh, như vậy người Trung-quốc chỉ biết về các đảo đó từ sau khi người Âu-châu đã đến và đặt tên cho các đảo đó.

            Tóm lại, các quan-điểm quốc-tế tại hội-nghị Manila đều đã ủng-hộ và củng-cố cho lập-trường của Việt-nam và Phi Luật Tân trong cuộc tranh chấp trên Biển Đông với Trung-Cộng.

 

Thông-cáo chung đưa ra năm điểm

 

            Cuối ngày, Hội-nghị Manila đã đưa ra được một thông-cáo chung (Joint Statement) gồm năm điểm:

            Một là tiếp-tục nghiên cứu việc nên đặt một tên chung cho Biển Đông (hay Biển Nam-hải, Biển Tây Phi Luật Tân v.v.) là "Biển Đông-Nam-Á."  Đây là một sáng-kiến đã được đưa ra cách đây cả mấy năm trời bởi Nguyễn Thái Học Foundation và một vài chuyên-gia như sử-gia Phạm Cao Dương mà ông Bích nhắc lại trong bài nói chuyện của ông.  G.S. Carlyle Thayer đã đứng lên phát biểu là ông hoàn-toàn ủng-hộ đề nghị này.

            Hai là việc kêu gọi tất cả các quốc gia trong vùng, nhất là Trung-quốc, hãy ngưng ngay mọi bồi đắp hay xây cất trên Biển Đông làm thay đổi nguyên-trạng các bãi đảo trong vùng trong khi chờ đợi việc ra đời một Quy-ước Ứng-xử (Code of Conduct) có sự thỏa-thuận của các bên.

            Ba là việc kêu gọi việc thành-lập một ủy-ban quốc-tế độc-lập, không thiên-vị để giúp giải-quyết các tranh chấp qua thương-lượng cho đến khi có được Quy-ước Ứng-xử nói trên.

            Bốn là, trong khi chờ đợi, kêu gọi chính-quyền của hai nước VN và Phi Luật Tân hãy tìm cách thương-thảo với nhau để có được một giải-pháp tạm ổn trong các vùng tranh chấp giữa hai nước ngõ hầu đi đến khai thác chung các tài-nguyên như ở Trường-sa và đương đầu hữu hiệu với các mưu-đồ của Trung-quốc.

            Và cuối cùng là ủng-hộ việc thiết-lập một Ban Công-tác Hỗn-hợp của các Xã-hội dân-sự Phi Luật Tân và Việt Nam nhằm thúc đẩy những giải-pháp đã được bàn tới ở Hội-nghị Manila này cũng như tổ-chức những sinh-hoạt tương-tự trong các năm kế tiếp.  Chủ-yếu là để cho phép người dân được học hỏi thêm về các vấn-đề Biển Đông cũng như có tiếng nói của mình (tỷ như của các ngư-dân VN) trong tiến-trình bàn thảo về Biển Đông.

            Được biết, Kỷ-yếu về Hội-nghị Manila (với những thông tin rất mới) cũng đang được dự-trù sẽ được công-bố trong thời-gian tới đây.

 (Hình ảnh: Lý Kiến Trúc)

 


.
,

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Nguyệt Quỳnh: Anh còn điều gì khác muốn chia sẻ thêm? Trịnh Bá Phương: Trong cuộc đấu tranh giữ đất, nhóm chúng tôi đã tham gia các phong trào khác như bảo vệ cây xanh, bảo vệ môi trường, tham gia biểu tình đòi tự do cho các nhà yêu nước, tham gia các phiên toà xét xử người yêu nước bị nhà nước cộng sản bắt giam tuỳ tiện. Và hướng về biển đông, chống sự bành trướng của Bắc Kinh khi đã cướp Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam! Và mới đây là phản đối bè lũ bán nước đã đưa ra dự luật đặc khu và dự luật an ninh mạng.
Có một câu thần chú mới mà các nhân viên FBI đã khuyên tất cả chúng ta phải học thuộc và nên áp dụng trong thời đại này. Thời đại của cao trào xả súng đang diễn ra khắp nơi ở Hoa Kỳ. Xin giới thiệu cùng bạn đọc một bài viết hữu ích của nữ ký giả Alaa Elassar của đài CNN đang được đăng tải trên liên mạng. Cô đã nêu ra những lời khuyên rất cần thiết cho chúng ta, căn bản dựa trên những video clips huấn luyện và đào tạo nhân viên của FBI.
Since I arrived in the United States in “Black April” of 1975 (the Fall of Saigon) and had been resettled in Oklahoma City to date, I have had two opportunities to go back to schools. The first one I studied at Oklahoma City University (OCU) for 5 years and received my degree in 1981. Having to work during day time, I could only go to school in the evening.
Như vậy, từ hiện tượng đảng viên “quay lưng” lại với đảng đến chuyện dân bỏ mặc mọi việc cho nhà nước lo cho tới chuyện thanh niên, rường cột của Tổ quốc, cũng “khô đoàn” và “nhạt đảng” thì điều được gọi là “nền tảng Tư tưởng đảng” có còn gốc rễ gì không, hay trốc hết rồi?
Niềm vui trong Ngày Hội Ngộ, với đặc san được quý nương “khen” còn mấy ông già chồng chỉ gật gù “mầy giữ gìn sức khỏe để tiếp tục”. Tháng 5 năm 2020 và tháng 5 năm nay vì cái dịch Covod-19, không có cơ hội gặp nhau. Dù “ghét cay ghét đắng” mấy ông già chồng hành hạ “con dâu” nầy nhưng không được dịp hội ngộ với nhau, nhớ nhiều.
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.