Hôm nay,  

Linh Ứng Của Chú Đại Bi

24/03/201500:00:00(Xem: 12098)
Có lẽ kiếp trước là người có căn duyên với phật giáo cho nên từ thuở nhỏ tôi đã rất tin vào phật pháp và luôn trân quí những kinh sách do duyên có được. Một trong những kinh mà tôi biết trước nhất là “Bạch Y Thần Chú” và đã có phước duyên cảm nhận được linh ứng của thần chú này trên con đường vượt biển đến bến bờ tự do. Tôi đã ghi lại sự linh ứng này qua bài “Bạch Y Thần chú. Khi nghiên cứu về mật tông (khoảng 30 năm trước ) tôi cũng đã có duyên chứng nghiệm được uy lực của đại chú “Chuẩn Đề” trong một vài trường hợp. 2 năm trước đây trong khi trợ giúp cho vong hồn của cô em họ bên vợ (bài viết “Kêu Cứu Của Một Oan Hồn”) tôi cũng có duyên biết đến công đức tụng niệm kinh “Địa Tạng”, và cũng qua sự kiện này tôi đã phát tâm trì chú “Đại Bi” thường xuyên hơn.

Nói về sự linh ứng của chú “Đại Bi” thì tôi nghĩ rằng đa số những người trì tụng chú này không ít thì nhiều cũng đã cảm nhận được những điều linh diệu. Riêng đối với tôi khi bắt đầu phát tâm trì tụng, tôi đã may mắn chứng nghiệm được những điều linh ứng hay những “trùng hợp” thật kỳ lạ khiến tôi thấu hiểu hơn về mục đích của hiện tượng và trở nên tinh tấn hơn.

Linh ứng.

Xin chia sẻ với quí độc giả hai sự kiện dưới đây liên quan đến chú “Đại Bi” mà tôi đã may mắn có duyên chứng nghiệm. Hy vọng rằng với sự nhất tâm trì tụng thì quí vị cũng sẽ được những điều an lành như ý nguyện.

1. Tổ Ong

Vào một buổi trưa tháng 03 năm 2014, khi cùng một vài người bạn dạo xem khu vườn sau nhà thì thấy một bầy ong đang bay tới tán loạn, nhìn sang nhà bên cạnh phía sau vườn thì thấy hai vợ chồng láng giềng mặc đồ kín mít và đang đốt khói để đuổi bầy ong đang làm tổ trong ống thoát khói nơi bếp Vi sợ ong chích nên chúng tôi vào lại trong nhà. Đến xế chiều thì vợ tôi cho biết có một một bầy ong đang làm tổ nơi cây đào sau vườn, tôi vội ra xem thì quả thật trên một nhánh đào có một bầy ong khá lớn đang kết lại thành chùm.

Vợ tôi vì sợ ong chích nên hối tôi mau tìm cách đốt khói hoặc xịt nước đuổi chúng đi nơi khác. Sau khi quan sát một lúc thì tôi nói với vợ tôi rằng: “Chúng cũng đâu muốn làm tổ nơi sau vườn nhà mình chẳng qua vì hoàn cảnh nên phải qua nhà mình tạm trú, hãy cho chúng ở tạm một vài ngày rồi tính. Nghe xong vợ tôi cũng có vẻ thông cảm.

Đợi vợ tôi vào nhà, tôi đã đến sát tổ ong niệm thầm chú “Đại Bi” và sau đó nói thầm với bầy ong rằng: “Ta cho các ngươi ở tạm nơi khu vườn này trong vòng 3 ngày để tìm chổ mới lập tổ.”

Đúng 3 ngày sau đó tôi ra quan sát thì thấy bầy ong đã không giảm mà còn lớn và dày đặc hơn trước kia. Cũng như lần trước, tôi đến gần tổ ong kiết ấn và niệm thầm chú “Đại Bi” và cũng khuyên bầy ong: “Tai sao các ngươi không tìm nơi cây cao bóng mát kết tổ an cư mà ở lại nơi đây? Nếu như không đi nơi khác thì ta sẽ cho người đến bắt đi thì lúc đó các ngươi sẽ sống như kiếp sống nô lệ, tù đày mất hết tự do.”

Qua ngày hôm sau ra xem thì thấy chùm ong vẫn treo lơ lửng trên nhánh đào không thay đổi. Khi vào sở tình cờ nói chuyện với một người bạn Mỹ về tổ ong sau nhà thì may mắn được biết anh ta có quen với một người chuyên nuôi ong mật, và nếu như tôi muốn sẽ báo cho người đó đến lấy tổ ong đi. Tôi đồng ý ngay. Sau khi liên lạc với bạn thì anh ta cho tôi biết rằng trong những trường hợp như vậy thì thông thường bầy ong sẽ bay đi nơi khác trong vòng 2 đến 3 ngày, vậy hãy cho chúng thêm 1 ngày nữa xem sao? Tôi cho anh ấy biết là bầy ong đã ở 4 ngày rồi.

Một ngày lại trôi qua, sau khi ăn trưa tôi đã ghé xem tổ ong thì thấy chúng vẫn không chút gì thay đổi. Cũng như lần trước, tôi cũng đến nói với chúng rằng: “Có lẽ số của các ngươi phải sống kiếp nô lệ, ta không còn cách gì hơn và chiều nay sẽ cho người đến bắt đi”

Khi vào sở tôi hỏi xin người bạn số phone của thợ nuôi ong, sau khi liên lạc thì họ cho biết sẽ đến bắt tổ ong vào lúc 5:00PM.

Khoảng 4:00PM tôi gọi phone cho vợ tôi nhờ ra xem tổ ong như thế nào trước khi thợ đến bắt. Một vài phút sau thì vợ tôi gọi lại cho biết trong sự kinh ngạc: “ Anh ơi, bầy ong bay đi mất hết, không còn lại một con” Nghe xong tôi cũng bán tin bán nghi không biết có thật sự như vậy hay không?

- Có thật không?

- Thật mà, không tin anh về xem đi.

- Nếu vậy thì em gọi báo cho họ biết ngay đi vì cũng gần tới giờ rồi.

- Em sẽ gọi phone ngay bây giờ.

Sau khi tan sở về, tôi vội ra sau vườn xem thì quả thật đúng như lời vợ tôi cho biết, bầy ong đã bay mất hết. Quan sát kỷ nơi nhánh cây chúng làm tổ thì còn lại chất sáp màu trắng.


Tôi tự hỏi không lẽ bầy ong này có tánh linh biết trước được điều gì sẽ đến vì thời gian cách biệt chỉ vài giờ!

Nếu không phải là sự linh ứng của chú “Đại Bi” thì cũng có thể xem đây như một sự trùng hợp khá lạ lùng!

Tôi cũng mừng cho bầy ong thoát nạn và nhất là mình cũng khỏi phải mang thêm một nghiệp mới.

2. Đau bao tử

Hơn một năm trước đây, chứng đau bao tử của vợ tôi tái phát và lần này khá nặng hầu như uống đủ loại thuốc mà cũng không thuyên giảm. Đôi khi phải tăng liều thuốc lên gấp hai, gấp ba lần mới giảm cơn đau. Có những đêm thức giấc vào khoảng 1, 2 giờ sáng thấy vợ tôi đang oằn oại ôm bụng đau khóc khiến tôi cảm thấy thật xót xa!

Thương vợ nhưng cũng không biết phải làm sao hơn vì thuốc nào vợ tôi cũng đã thử qua hết và chỉ giúp giảm cơn đau được một vài giờ! Cho đến một hôm vào buổi tối, sau khi trì chú “Đại Bi” như thường lệ tôi đã cầu xin chư Phật gia hộ giúp cho tôi sớm tìm được thuốc hay thầy giỏi để giúp cho vợ tôi mau hết bệnh. Không hiểu sao lúc đó trong đầu tôi tự nhiên bỗng nghĩ đến hạt “chia” (giống như hạt é) và tại sao không cho uống thử xem sao? Tôi vội pha một ly nhỏ cho vợ tôi uống thì thật kỳ lạ là sau hơn nửa tiếng thì vợ tôi cho biết hình như có hiệu quả vì đã bớt đau khá nhiều. Sau một vài ngày với kết quả khả quan thì vợ tôi đã quyết định bỏ thuốc chỉ uống hạt “chia” (uống trước khi di ngủ và lúc sáng sớm) để xem như thế nào? Kết quả thật không ngờ là không còn bi đau nữa nên tạm không dùng thuốc Tây. Tôi nghỉ thầm:”Không biết đây có phải là sự trùng hợp “ngẫu nhiên” hay không?”

Được hơn 6 tháng thì vợ tôi cho biết hình như hạt “chia” đã không còn tác dụng nữa vì bao tử bắt đầu chớm đau trở lại.

Một vài ngày sau, cũng như lần trước, sau khi trì chú “Đại Bi” tôi lại khẩn xin chư Phật cứu giúp thì một vài phút sau một ý nghĩ đến trong đầu: “Tại sao không cho uống kèm theo mật ong?” Tôi vội pha mật ong với hạt “chia” cho vợ tôi uống. Sau hơn nửa tiếng thì vợ tôi cho biết đã có công hiệu, cơn đau đã giảm hẳn.

Tôi lại thầm nghĩ không biết có phải là do sự “trùng hợp” nữa hay không, hay do sự gia trì của chư vị?

Mọi việc tưởng đâu yên thì cách đây khoảng hơn 2 tháng, vợ tôi lại cho biết hạt “chia” và mật ong đã hết công hiệu vì bao tử bắt đầu đau trở lại. Tôi thật sự lo vì lần này không biết phải làm sao nữa? Thôi cứ thử xin thêm một lần nữa xem sao, tuy nghĩ vậy nhưng tâm tôi không cảm thấy hy vọng chút nào vì đã may mắn được 2 lần rồi, và không biết lần này có được “may mắn” như hai lần trước nữa hay không?

Cũng như thường lệ sau khi trì chú “Đại Bi” cho chúng sinh nơi sau vườn, tôi đã xin chư vị với lời khẩn cầu như sau:

“Hiện nay có rất nhiều người đang bị chứng đau bao tử hành hạ, con xin khẩn xin Thầy (Linh sư) cùng các chư vị có thể giúp cho con tìm được phương thuốc để giúp cho các bệnh nhân giảm bớt đi sự đau đớn, nếu được như vậy con xin nguyện sẽ phổ biến đến với tất cả những người đồng bệnh hữu duyên. Khoảng 15 phút sau, lúc đang tập exercise nơi patio, thì một ý nghĩ bỗng xuất hiện trong đầu:“ Sao không phối hợp hạt “chia”, mật ong cùng với nước Aloe Vera nguyên chất”. Ngẫm nghĩ lại thấy cũng hợp lý, đúng là có tin vui lúc tuyệt vọng. Một tuần sau tôi đã đến Trader Joe mua thử một bình Aloe Vera nguyên chất về cho vợ tôi uống thử theo cách như sau: uống 2 ounces 15 phút sau khi uống hạt “chia” pha với mật ong trước khi đi ngủ (để tráng bao tử), và uống 2 ounces vào lúc sáng sớm cũng sau khi uống hạt “chia”. Sau vài ngày thì vợ tôi cho biết đã hết đau và tiếp tục uống cho đến nay mà không dùng đến thuốc (kỳ này không biết sẽ cầm cự được bao lâu?)

Theo lời nguyện, người viết xin phổ biến kết quả đã chứng nghiệm được do sự trì chú chứ không nhằm mục đích khuyên quí đọc giả nên ngưng thuốc.

Biết rằng phước nghiệp của mỗi người mỗi khác, có khi thức uống hạt “chia”, mật ong và Aloe Vera trình bày trên chỉ có công hiệu với người này nhưng lại không có hiệu quả với người khác nhưng tại sao chúng ta không thử nghiệm cho biết. Biết đâu may mắn được giảm bớt cơn đau mà không dùng đến những vị thuốc có thể gây ra những ảnh hưởng không tốt cho cơ thể về sau.

Trì chú có được sự linh ứng hay không, hay chỉ là những sự “may mắn” nhất thời? Tất cả cũng tùy vào “phước duyên”. Xin để quí vị tự chứng nghiệm.

Chúc quí vị sẽ có được kết quả tốt đẹp và xin nguyện hồi hướng công đức này đến khắp pháp giới chúng sinh.

Mùa Xuân 2015

Phương Chính Nguyễn Quang Đạt

www.duongsinhthucphap.org

Ý kiến bạn đọc
25/03/201500:08:54
Khách
Cám ơn ông đã chia sẻ những kinh nghiệm quý báu về Chú Đại Bi.
Cầu xin Phật Bà phù hộ cho vợ ông và những người cùng bệnh được khỏi bệnh hoàn toàn.
L.N.Hằng
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?
Ngày 30/4 năm thứ 46 sau 1975 đặt ra câu hỏi: Còn bao nhiêu năm nữa thì người Việt Nam ở hai đầu chiến tuyến trong chiến tranh mới “hòa giải, hòa hợp” được với nhau để thành “Một Người Việt Nam”? Hỏi chơi vậy thôi chứ cứ như tình hình bây giờ thì còn mút mùa lệ thủy. Nhưng tại sao?
30 tháng Tư. Đó là ngày nhắc nhở chúng ta cần có dự tính cho tương lai. Vào năm 1975, ai có thể ngờ rằng sẽ có gần 2 triệu người Việt tại Hoa Kỳ nuôi dưỡng cuộc sống có ý nghĩa và đóng góp một cách đáng kể cho xã hội? Ai ngờ được rằng hiện đã có thế hệ người Mỹ gốc Việt thứ ba, thứ tư?
Tổng thống Joe Biden như một người thuyền trưởng, nắm con thuyền quốc gia giữa cơn bão dữ. Chỉ trong cơn sóng lớn mới thấy được khả năng người lèo lái. Những thách thức vẫn còn trước mặt, nhưng con thuyền quốc gia hứa hẹn sẽ đến được chân trời rộng mở. Sự lãnh đạo và phục vụ thầm lặng, bền đỗ cho quốc gia và người dân của tổng thống Joe Biden đã được chứng minh bằng kết quả hiển hiện trong 100 ngày vừa qua.
Ca sĩ Tina Turner, có lẽ ai cũng biết nhưng quá trình tìm đến đạo Phật, trở thành Phật tử và sự tinh tấn của cô ta chắc không nhiều người biết. Giáo lý đạo Phật đã vực dậy đời sống cá nhân cũng như sự nghiệp của cô ta từ hố thẳm đau khổ, thất vọng.
Một nhân vật còn sống sót sau thảm họa Lò sát sinh (Holocaust) và từng đoạt giải Nobel Hòa bình, Elie Wiesel, nói: "Sự đối nghịch của tình thương không phải là sự ghét bỏ, mà là sự dửng dưng. Sự dửng dưng khiến đối tượng thành vắng bóng, vô hình…"
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.