Hôm nay,  

Việt Nam Di Cư 1954

10/03/201500:00:00(Xem: 8082)

Năm ấy tôi 10 tuổi, đang học lớp Nhì trường Ngô Quyền, Hải Phòng. Môt hôm, me tôi bảo:

- Con vào trường xin phép Thầy cho con đi di cư.

Tôi lẳng lặng tuân theo, vì hai tiếng “di cư” đã xôn xao từ lâu trong xóm rồi. Các cậu tôi ở đâu mà tôi không từng biết cũng đột nhiên xuất hiện đầy nhà tôi, nói chuyện, hút thuốc lào, nhả khói ngập phòng. Tối đến thì nằm tràn lan dưới đất. Cả nhà có một cái quạt máy cũ, các cậu chiếm luôn để ngay đầu mình nằm, có lẽ để che tiếng ngáy của các cậu, y hệt tiếng bánh xe lửa, “kẹt, kẹt, hú.. hú.. kẹt, kẹt…”

Khi tôi đến lớp học, môt không khí buồn thảm đã chăng đầy làm cho những thằng quậy nhất lớp cũng im lặng. Tôi tiến lên bàn thầy, khoanh tay, cúi đầu:

- Thưa Thầy, con xin phép Thầy cho con nghỉ học. Con đi di cư.

Thầy ngước cặp mắt kính dầy như cái đít chai, nhìn tôi, hiền từ:

- Ừ! Thì con đi nhé.

Tôi quay trở lại bàn, lục trong cặp ra lấy hết những cái hình Tạc Dăng mà tôi cắt trong sách báo, với một bó dây cao su và mấy viên bi ve khổng lồ, mầu xanh biếc, to bằng ngón chân cái mà tôi quý lắm, đưa hết cho thằng Thắng, bạn thân nhất của tôi. Nó im lặng, chẳng nói gì, buồn buồn nhìn tôi. Hai đứa lặng lẽ chia tay. Tôi đi xuống thang mà lòng như rỗng hẳn đi.

Về đến nhà, me tôi bảo:

- Con đi đằng này với me.

Tôi gật đầu ngay. Me tôi dẫn tôi đi ra các phố xem thiên hạ nhộn nhịp chuẩn bị di cư. Trên các vỉa hè, người ta bán tống bán tháo mọi thứ cho nhẹ người mà đi. Đồng hồ đứng, đồng hồ bàn, ghế, bàn, lồng chim, quần áo, chai lọ, tranh ảnh, sách vở..đủ thứ lỉnh kỉnh. Tiếng người ồn ào, gay gắt. Những người không đi di cư thì hoặc đứng hoặc ngồi bệt xuống đất mà trả giá rồi khệ nệ ôm ôm, xách xách, kéo lê đồ mới mua được về nhà. Kẻ bán xong được thì phủi đít đứng dậy, vừa thở dài vừa mừng. Nhưng có một điều ai cũng giống ai là khuôn mặt mọi người đều mang một vẻ ưu tư, trầm uất, không thấy có môt nụ cười nào tươi nở, ngay cả những cô thiếu nữ trong chiếc áo dài trịnh trọng, thường ngày vui tươi, hớn hở, mà nay cũng đăm chiêu như các cụ già. Mấy thằng bé trạc tuổi tôi, vẫn chạy nhẩy nhốn nháo mà nay cũng ngơ ngác, xỏ tay túi quần, đứng nhìn mọi sinh hoạt chộn rộn kia như nhìn người của thế giới khác.

Hai mẹ con đi mãi đến mỏi chân mới trở về nhà. Thực ra, đây chỉ là nhà mà me tôi thuê tạm mà thôi. Chúng tôi vốn ở xa mới dọn tới đây được gần hai năm. Me tôi vốn quê Thái Bình, còn Thầy tôi quê Hà Đông. Thầy tôi vốn là ông đồ nho, được dân làng bầu làm Tiên Chỉ, một chức vụ lớn nhất làng, nên được trọng vọng nhưng không có tiền nhiều vì không có thực quyền như ông Lý Trưởng. Với địa vị Tiên Chỉ, mỗi lần họp hành, ăn nhậu thì Thầy được ngồi chiếu trên, và nếu có chặt gà, thì Thầy tôi được cái đầu gà, nếu giết lợn thì Thầy tôi được nguyên một cái “thủ” lợn! Nếu có cãi nhau, thì ý kiến Thầy tôi là ý kiến chung cuộc, không ai dám cãi, chỉ biết cúi đầu nói:

- Vâng, nếu ý kiến cụ Chỉ đã như thế, thì chúng tôi xin vâng. Cụ Chỉ dậy sao, chúng tôi làm vậy!

(Để tỏ lòng tôn trọng, người làng đều bớt đi chữ Tiên, mà gọi ngắn là cụ Chỉ!)

Dân làng mà thấy Thầy tôi đi qua, thì phải ngả nón chào: “Lạy cụ Chỉ ạ!” Nhưng chỉ có thế thôi! Thầy tôi có “tiếng” nhưng không có “miếng”. Nhưng, như người xưa nói: “Của Trời cho, thì tự khắc nó bò vào nhà!” Thầy tôi lại rất giầu, vì có may mắn là được bà Nội tôi chia cho mấy mẫu ruộng ở miền thượng du, cho tá điền cấy rẽ, nên chẳng phải làm gì mà vẫn sống huy hoàng. Nếu không có Việt Minh nổi lên, dán cho Thầy me tôi cái bản án: “Nợ máu với nhân dân” rồi tịch thu hết đất đai, bắt Thầy tôi ra khảo của, thì chúng tôi còn ở quê mãi. Khi Thầy tôi sắp sửa bị đem ra đấu tố, những tá điền thương Thầy tôi, cõng Thầy tôi chạy. Cả nhà tôi lúp xúp chạy theo, hai chị kế tôi thì được cho vào hai cái thúng cho một anh tá điền gánh, còn tôi thì được me tôi cột chặt vào sau lưng, chạy băng ruộng về Hà Nội.

Thầy me tôi về Hà Nội, mua căn nhà thật lớn ngay tại phố Khâm Thiên, hai tầng, mà thang đi lên tầng hai đặt ở giữa phòng khách, có tay vịn hai bên bằng đồng sáng chói. Tưởng thế là hạnh phúc mãi. Ai ngờ, lại gặp trắc trở. Thầy tôi về đấy lại gặp ngay những “cô đầu” gần nhà, dụ dỗ đi hát “ả đào” hoài. Từ đó, mà Thầy me tôi xích mích nhau trầm trọng. Trong một lần cãi nhau nặng lời, me tôi đùng đùng kéo mấy đứa con về Bùi Chu, một tỉnh xa lắc xa lơ, hẻo lánh. Me tôi mua ngay căn nhà đầu đường sát với nhà thờ Bùi Chu, rồi đi buôn đủ thứ. Vì bà rất bạo gan, và muốn làm giầu để cho Thầy tôi “biết mặt”, nên chuyến buôn nào của bà cũng là nguy hiểm, chín chết một sống. Lúc thì bà buôn đá lửa, thuốc cảm Aspirin vào trong vùng Việt Minh đóng. Bà thuê thuyền đinh chở đi, và cho người đục rỗng mái chèo ra, rồi đổ đá lửa, thuốc men vào trong ấy rồi khằn lại. Tới khu Việt Minh, bà khôn khéo nộp tiền mãi lộ, nên bọn chúng cho qua. Nhưng rồi thấy nguy hiểm quá, có thể bị Việt Minh bổ cuốc vào đầu bất cứ lúc nào, bà đi buôn gỗ từ trên rừng thượng xuống đồng bằng. Bà mua gỗ ngay từ đầu nguồn rồi thuê người đóng thành bè, cho thả xuống sông, thuê người đẩy gỗ đi, còn bà thì đi thuyền theo. Đến bến dưới bình nguyên, bà bán từng bè gỗ như thế cho thương lái, lấy tiền chênh lệch, nhưng rồi nguy hiểm chập chùng trong suốt đường đi, nào cướp, nào tai nạn, có những bè gỗ dạt vào bờ, hay đâm vào đá, bể tung, muốn đi vớt lại cũng “chằng ăn, trăn cuốn”. Bà lại bỏ. Rồi đi buôn thuốc lào. Từng bánh thuốc lào Vĩnh Bảo được nén chặt trong các thùng nhôm tròn, cao khoảng gần một thước, đường kính cũng gần một thước. Bà cho chở lên xe “ca”, loại xe chở hành khách ngày xưa, mang đi các tỉnh. Xe ca hồi đó chỉ có ghế gỗ, ngồi trên đường xóc muốn đứt cả ruột, giữa đám bụi đỏ mù trời. Nhưng vì xe ca hay bị dính mìn của bọn Viêt Minh, nổ tung xác pháo nên bà lại đi tầu thủy, loại tầu từ thế chiến thứ 2, do gia đình họ Bạch đấu thầu, chạy chậm rì, phun khói mù trời. Tầu thủy thì không sợ bị mìn, nhưng lại sợ đắm! Mấy cái tầu ấy cũ xì, gỗ và sắt làm đáy tầu chỉ mấy năm là rỉ sét, nếu chở nặng quá thì bể tung, người chết hàng lũ như đàn cá bị trúng thuốc độc.

Trong tất cả các chuyến đi ấy, me tôi vất vả lắm, nhưng ngược lại, tôi thì khoái vô cùng vì bà cho tôi, thằng Út, đi theo, còn các anh chị khác thì ở nhà, thèm nhỏ giãi... Nhưng thôi, trở lại chuyện di cư 1954.

Một buổi sáng lạnh, me tôi đánh thức chúng tôi dậy và hấp tấp leo lên một chiếc xe nhà binh đậu trước cửa. Gia tài chúng tôi mang theo chỉ là hai cái hòm gỗ. Cùng với một số gia đình gần bên, chúng tôi được chở tới “căng con cóc”, là một nơi tập trung tạm dưới những cái lều nhà binh mầu xanh dầy, khổng lồ chứa được vài chục gia đình. (Gọi là “căng con cóc” vì có 4 cái tượng con cóc ngồi chồm hổm, chĩa miệng vào trong, phun nước vào một cái hồ cạn.) Mỗi gia đình, tùy theo số người mà nhận những chiếc ghế bố xếp của nhà binh, và chăn. Mỗi ngày chúng tôi được phát đồ ăn hai lần. Chiều chiều, máy phóng thanh đặt tại bốn góc “căng” phổ biến tin tức và phát bài “Sáng trăng sáng cả vườn chè...anh chưa thi đỗ, thì chưa động phòng” do ca sĩ Xuân Sơn hát. Ngoài ra, còn các bài “Thuyền Viễn Xứ” do Mai Hương ca, và bài “Ô Mê Ly” do cả ban nhạc Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung, Hoài Bắc trình bầy. Hoài Trung giả tiếng Ngưa hí “hí.. hí.. í. í..í” nghe giống hệt tiếng ngựa!

Ở đấy được vài ngày, chúng tôi lại phải di chuyển về “căng xi măng”, một nơi tập trung lớn gấp nhiều lần “căng con cóc”. Ở đây được ăn nhiều hơn, nhưng lại gặp trở ngại là vì ở gần nhà máy sản xuất xi măng nên bụi xi măng lúc nào cũng nghẹt cả không gian. Mũi chúng tôi lúc nào cũng trắng xóa. Lúc đó lũ trẻ chúng tôi chẳng biết hiểm họa của bụi xi măng khi vào phổi thì làm sao, mà chỉ ham vui, thích đứng ngắm một cái cầu “rút”, gần nhà máy, khi có tầu lớn đi ngang, thì chiếc cầu từ từ nứt ra ở giữa, rồi từ từ mở lên cao, cho tầu đi quan xong thì lại từ từ gập xuống.

Rồi buổi sáng ấy cũng đến. Máy phóng thanh kêu gọi mọi người thức dậy, mang hết hành lý lên xe, ra bến tầu. Chúng tôi lần lượt leo lên xe, tương đối gọn gàng, nhưng cũng có nhiều người lại mang theo những bó chiếu dài, có lẽ sợ miền Nam không có chiếu! Một bà cụ giắt đầy khăn măt vào giải lưng quần, bay phất phới, lại khệ nệ bưng một cái rổ to đầy, chất nặng những thứ lỉnh kỉnh gì đó, mà đến khi lên tầu, bị buộc phải vất lại, bà khóc nức nở, cứ “Giê ma lạy Chúa tôi! Giê Ma lạy Chúa tôi!”

Tới bến tầu, mọi người phải sắp hàng đi theo những cái cọc chăng giây, và lần lượt mọi người phải vạch bụng ra cho một người cầm bình xịt thuốc DDT vào bụng trắng xóa, để diệt chấy rận. Đi hết hàng xịt thuốc, thì lên tầu “há mồm” là chiếc tầu đổ bộ nên không có phòng ốc gì, chỉ là môt khoảng sàn trống cho người di cư nằm ngồi tùm lum. Không có phòng vệ sinh, chỉ có mấy cái khung sắt hàn dính vào hai bên sườn tầu ở trên cao, ngồi trong cái khung sắt ấy mà thả “bom” xuống biển! Đi khoảng nửa ngày ra tới tầu lớn như một cái thành phố có nhiều tầng. Từ tầu “há mồm”, mọi người phải leo lên cầu tầu là một cái cầu treo rất cao bắt tuốt tới boong tầu. Đến đầu cầu thang, từng người môt được phát một cái khăn mặt, một hộp kẹo xô-cô-la, môt cái bàn chải đánh răng, môt hộp kem đánh răng, loại hộp tròn, mở ra, dùng bàn chải chà chà vào lớp bột cứng bên trong. Me tôi lôi từng đứa vào phòng, chiếm mấy cái giường tầng liền nhau. Tôi hào hứng leo lên tầng cao nhất, mà không biết rằng, khi tầu chạy, tôi say sóng, nôn thốc tháo xuống đầy mặt người nằm dưới! Vì tính tò mò, sau khi cả nhà an vị, tôi chạy lung tung, lên khoang này, xuống khoang kia, có lẽ đến 7,8 tầng, rồi lại chạy lên boong, ngó người ngồi nằm la liệt. Điều buồn cười nhất là việc đi vệ sinh. Phòng vệ sinh ở trên tầu là môt dẫy bàn cầu trống huyếch hoác, không có cửa. Mọi người đều quen ngồi kiểu nước lụt, nên khi đi vệ sinh, cứ leo lên ngồi chồm hỗm bên trên, phơi hết đồ lòng ra. Mấy anh lính thủy Mỹ cười bò lăn rồi kéo từng người ngồi bệt xuống bàn cầu. Nhiều cụ già không chịu, vì vừa xấu hổ, vừa dốt nát, nên cự cãi um xùm, mà lính Mỹ dễ tính, không cãi lại.

Đến bữa ăn, thì xếp hàng đi lãnh cơm, táo, bánh mì.. Mấy cụ bà gốc quê thấy trái táo thì chẳng biết là cái gì, cứ trố mắt ra mà xăm xoi. Còn những ông tham ăn, vơ vét cho đầy khay, nhét vào đầy bụng để lúc say sóng thì trả lại sàn tầu, nhơ nhớp kinh khủng.

Tầu chạy chừng 3, 4 ngày thì tới bến Saigon. Khi tầu ngừng và nghe tiếng người la ó um xùm, tôi chạy lên boong để thấy môt khung cảnh thật lạ. Lạ nhất là cảnh bán đồ ăn, trái cây từ dưới sông lên tầu. Những chiếc thuyền con kẹp sát thành tầu, giơ cao những cây gậy thật dài lên tới boong, trên đầu gậy là cái rổ nhỏ, trong đó đựng trái cây, bánh, kẹo. Ai ở trên boong mà mua, thì cứ việc bốc ra rồi bỏ tiền vào trong đó, không mặc cả gì hết. Người ở dưới từ từ rút cái rổ xuống, nhặt tiền ra rồi lại bỏ đồ vào trong rồi đẩy cây lên… Tầu ngừng một thời gian rồi thả thang xuống cho mọi người lên bờ. Gia đình chúng tôi xuống sau hết để tìm người quen đến đón: ông anh rể của tôi, đã đi theo Sở vào Nam trước cả tháng rồi. Khi chúng tôi xuống đến bến, thì thấy trên bờ có giăng một cái biểu ngữ mầu vàng dài cả chục thước, đề chữ: “Hân hoan đón chào người di cư thứ 1 triệu!”. Dưới cái biểu ngữ là một dẫy hai, ba cái bàn, trên đó, chất đống đầy tiền mới. Cứ mỗi đầu người đi qua, thì được đưa cho 800 đồng! Mấy nhân viên làm việc cho Tổng Cuộc Di Cư hồi đó, cứ bốc tiền ra mà đưa, chẳng hỏi tên tuổi gì. Sau khi lãnh tiền, thì có loa gọi, hỏi ai muốn về các trại định cư thì xếp hàng, lên xe nhà binh, chở về chỗ định cư, có thể là Hố Nai, Gia Kiệm, Xóm Mới, Bùi Môn hay đi xa hơn nữa, tới tận Rạch Giá, Hà Tiên. Vì đa số dân di cư là Công Giáo nên có các linh mục đứng đón, đưa về từng vùng thích hợp với địa phương cũ của mình ở Bắc. Còn chúng tôi, có ông anh rể đến đón, nên đi riêng về khu tạm cư ở Khu Cầu Sắt, Khánh Hội, nơi dành riêng cho công chức miền Bắc di cư. Chúng tôi chỉ ở tạm đó có một tháng, rồi me tôi kéo chúng tôi về ngay trung tâm Khánh Hội. Bà thuê một căn nhà sàn, dựng trên đống sình lầy quanh năm, đường đi trước nhà là những cây cầu gổ ọp ẹp. Dưới chân cầu, chuột cống to đùng chạy qua chạy lại ăn rác và những thứ phóng uế do con người thải xuống…

Tới giai đoạn này là chấm dứt cuộc di cư của gia đình chúng tôi. Tại đây, các anh chị em tôi đã cắp cặp đi học và bắt đầu một cuộc đời mới tại miền Nam “đất lành, chim đậu”, để hòa nhập với đời sống Nam Kỳ, ăn hột vịt lộn, giá sống, mắm chua và hủ tiếu.

Đời sống cứ thế mà trôi đi. Đến nay, nhìn lại ngày di cư năm ấy đã đúng 60 năm! Nhanh quá! Như Cao Bá Quát đã viết: “Nhân sinh thiên địa gian nhất nghịch lữ. Có bao lăm ba vạn sáu nghìn ngày. Như thoi đưa, như bóng sổ, như gang tay…”

Chu Tất Tiến

Ý kiến bạn đọc
03/01/201612:52:42
Khách
Thời đó Trăng sáng vườn chè do ca sỹ Ánh Tuyết hát. Đến cái đoạn "động phòng" thì rất nũng nịu...
03/01/201606:25:26
Khách
Tôi vốn sinh sau 1954 nên rất mù mờ về chuyện đi cư . Chỉ bố mẹ tôi là những người trong thời gian.đó, bài viết rất hay đã cho tôi hiểu về những nă tháng đó
11/03/201519:09:14
Khách
Hay quá, nhưng lúc di cư 1954, ca sĩ Xuân Sơn với Trăng Sáng Vườn Chè mới lên 3 lên 4 mà thôi! Có thể là ca sĩ nào khác chăng?
11/03/201501:32:13
Khách
Thời gian tác giả di cư năm 1954 làm gì có ca sỉ Xuân sơn hát bài Trăng sáng vườn chè và ca sỉ Mai hương hát bài Thuyền viển sứ..có chăng là ban Thăng long với gia đình Thái Thanh
10/03/201519:39:37
Khách
Bài viết thật sống động. Cảm ơn tác giả đã chia sẻ vì lớp người sinh sau để muộn như chúng tôi không biết gì về di cư năm 1954 cả.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi rất thích khoa nhân chủng nhưng không có cơ may đến trường để được truyền thụ một cách bài bản về ngành học thú vị này. Hoàn cảnh sống, nói nào ngay, cũng không mấy thích hợp cho nhu cầu tự học. Suốt ngày (và suốt đời) tôi chỉ loanh quanh hàng quán nơi mà những kẻ hay lê la thường nói rất nhiều, dù sự hiểu biết của họ vốn không được bao nhiêu. Ngoài giới hạn về kiến thức, mấy ông bạn đồng ẩm còn có cái tật rất hay tranh cãi (và luôn cãi chầy cãi cối) nên mọi thông tin, từ bàn nhậu, đều không được khả xác hay khả tín gì cho lắm.
“Tham nhũng chính trị, lệch lạc tư tưởng, băng hoại đạo đức và hủ bại về lối sống. Đây là những kẻ thù rất nguy hiểm của Đảng, cần phải loại bỏ.” Tạp chí Xây Dựng Đảng (XDĐ) đã báo động như thế trong bài viết ngày 26/11/2023...
Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) nhìn nhận tình trạng “trẻ hóa” trong suy thoái “tư tưởng chính trị ” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang gây khó khăn cho công tác “xây dựng, chỉnh đốn đảng”...
Năm 2024 là năm bầu cử, một năm gay go thử thách, và đề tài yêu ghét dù muốn hay không muốn đã trở lại trên các trang báo, trong các buổi tranh luận trong gia đình, ngoài xã hội. Chúc bàn tiệc trong năm của quý vị rôm rả những câu chuyện, những cuộc đối thoại bổ ích hai chiều, những thay đổi tốt đẹp. Và xin cảm ơn quý thân hữu, thân chủ đã hỗ trợ, gắn bó cùng hành trình với Việt Báo trong hơn 31 năm qua. Sau cùng là lời tri ân đến các độc giả Việt Báo: chính quý vị, những người đọc khó tính là thành trì giúp Việt Báo trở thành một tờ báo uy tín, chuyên nghiệp.
Năm 2023 tiến vào những ngày cuối cùng, nó sẽ đi qua và không bao giờ trở lại. Lịch sử sẽ đi qua nhưng những việc làm của con người sẽ tồn tại với sự khôn ngoan và ngu ngốc của đa số. Cụm từ ‘con-người-đa-số’ chỉ định ý muốn chung của đa số người. Và ‘con-người-thiểu-số’ đành phải tuân theo. Trò sinh hoạt dân chủ luôn luôn là con dao hai lưỡi có hiệu quả tùy thuộc sở thích của con người đa số. Sở thích? Một thứ tạo ra tốt lành hoặc khổ nạn. Đúng ra là cả hai, nhưng có một trong hai sẽ lớn hơn, đôi khi, lớn gấp bội phần. Nếu khổ nạn quá lớn thì cuộc sống chung sẽ thay đổi, có khi lâm vào mức tồi tệ. Chẳng hạn như trường hợp nước Đức dưới thời Hitler. Ý muốn của con người đa số đam mê nồng nhiệt ý muốn của Hitler. Cho ông ta cơ hội dẫn đầu một quốc gia quyền lực, tạo ra hiệu quả cuộc chiến thế giới thứ hai. Hậu quả tàn khốc đó do ai? Hitler? Đúng một phần.
“Tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong Lực lượng vũ trang nhân dân là mối lo hàng đầu của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Bằng chứng này đã được Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đưa ra tại Hội nghị Đảng ủy Công an ngày 20/12/2023 tại Hà Nội, và trong nội dung các bài viết trên báo chí chính thống của nhà nước liên quan đến Quân đội...
Người ta nên áp dụng đạo đức vào tài chính trị của Henry Kissinger như thế nào? Làm thế nào để người ta quân bình những thành tựu với những hành vi sai trái của Kissinger? Tôi đã vật lộn với những vấn đề đó từ khi Kissinger là giáo sư của tôi, và sau này là đồng nghiệp tại Đại học Harvard. Vào tháng Tư năm 2012, tôi đã giúp phỏng vấn ông trước một số lượng lớn cử toạ tại Harvard và hỏi liệu ông có làm điều gì khác đi trong thời gian làm ngoại trưởng cho các Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Gerald Ford không. Lúc đầu, ông nói không. Suy nghĩ lại, ông nói rằng ước mình là đã hoạt động tích cực hơn ở Trung Đông. Nhưng ông không đề cập đến Campuchia, Chile, Pakistan hay Việt Nam. Một người phản đối ở phía sau hội trường hét lên: "Tội phạm chiến tranh!"
Việt Nam có còn “độc lập” với Trung Quốc hay không sau chuyến thăm Hà Nội của Tổng Bí thư, Chủ tịch nhà nước Tập Cận Bình là thắc mắc của người dân Việt Nam. Ông Tập có mặt ở Việt Nam từ 12 đến 13 tháng 12 năm 2023 và đạt được cam kết của Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng về “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam-Trung Quốc”.
Ngày nay, Chiến lược Phòng thủ Quốc gia của Hoa Kỳ – giống như chiến lược Chiến tranh Lạnh tạo chuẩn mực cho tư duy chiến lược trong những năm từ thập kỷ ‘50 đến ’80 – bị chi phối bởi một tác nhân đe dọa chính, đó là Trung Quốc. Điều này vừa cung cấp thông tin vừa tạo điều kiện cho tất cả các mối đe dọa lớn khác có thể xảy ra: Nga, Iran và Bắc Triều Tiên. Giống như thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ hiện đang lâm vào một cuộc cạnh tranh với đối thủ duy nhất của mình, một cuộc cạnh tranh có khả năng bỏ rơi các thành tựu chính trị, kinh tế và công nghệ. Hoa Kỳ cũng đang ở trong một cuộc chạy đua vũ trang hiện đại, và trong một số trường hợp, chơi trò đuổi bắt và tranh đua để giành tình hữu nghị, gây ảnh hưởng lên các quốc gia khác trên thế giới.
Rồi vào ngày 12/12/2023, tức chỉ sau ba tháng, Việt Nam lại long trọng tiếp đón Chủ Tịch Tập Cận Bình và nói rằng hợp tác và hữu nghị với Trung Quốc là lựa chọn chiến lược của Việt Nam...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.