Bóng bay, gió ơi. Nguyễn Thị Khánh Minh
Tô Đăng Khoa
Phần 1. Tính Hội Tụ của “Một Tản Văn Dị Thường”
“Bóng bay, gió ơi” là tác phẩm thứ chín của Nguyễn Thị Khánh Minh (NTKM) phát hành đầu năm 2015. Đó là tập tản văn mà Phan Tấn Hải gọi là “một tản văn dị thường” trong lời bạt cuối sách. Theo chổ tôi hiểu, sự “dị thường” đó chính là tác dụng của ngôn ngữ NTKM lên tâm thức của người đọc.
Thành công NTKM trước hết về mặt mỹ học là cách chọn chữ rất chuẩn xác để lột tả những nét riêng và chung của những cảm xúc phổ quát, thuần khiết, tiềm ẩn trong các mối liên hệ linh thiêng huyền nhiệm giữa người-với-người và người-với-thiên-nhiên. Các tản văn được viết ra đều đẹp như thơ, thâm trầm, nhẹ nhàng, và bay bổng như là “bóng bay, gió ơi.” Nhưng ở tầng sâu hơn, sự phối hợp tài tình của những con chữ trong tản văn NTKM đã thành tựu một sự kiện “dị thường”: nó truyền tải những ký ức (rất riêng tư) của NTKM thẳng đến tầng sâu vô thức của người đọc. Tại đó, chúng đánh thức những ký ức rất xưa cũ trong lòng ta, những ký ức mà tưởng chừng đã vĩnh viễn bị chôn vùi trong những bôi xóa của thời gian trong suốt một đời lang bạt.
Phút này đây, trong tâm thức của người đọc, một tác dụng “dị thường” xảy ra: biên giới của thời gian, không gian bị xóa nhòa. Ký ức ngủ quên bấy lâu được đánh thức bởi ngôn ngữ NTKM sẽ tái hiện thành cái-đang-là của thực tại ngay trong tâm thức người đọc.
Phút này đây, thực và mộng đan lẫn vào nhau, ký ức riêng lẽ của tác giả và đọc giả sẽ hòa tan trong phối cảnh ngôn ngữ NTKM để trở thành một “ký-ức-chung.” Nói cách khác, ngôn ngữ NTKM sẽ đánh thức các ký ức trầm ẩn rất sâu tiềm thức của chúng ta và đưa nó về, tái hiện ngay trên hiện tại để cùng với tác giả chiêm nghiệm lại tất cả “cảm xúc phổ quát” của những mối liên kết huyền nhiệm giữa một “thực-tại-người” với “những-cái-còn-lại” của vũ trụ bao la.
Thành quả đáng kể nhất của các “tản văn dị thường” chính là sự hình thành, và sự gìn giử lại một “ký-ức-chung” giữa tác giả và những đọc giả có thái độ trân trọng thích đáng đối với giá trị của ngôn ngữ. Chính cái “ký-ức-chung” này sẽ trở thành mối liên kết huyền nhiệm khác mang ý nghĩa hội tụ. Nó thiết lập ra “ngôi-nhà-chung” và cho phép chúng ta an trú trước cơn “bão cát sa mạc” của thời gian. Nó cho phép chúng ta chỉ trong một-niệm, nhắm mắt lại, khép lại hai hàng mi là có thể kinh nghiệm trở lại “niềm hạnh phúc có một “nhà quê” để gậm nhấm lúc chia xa…”.
Sự “dị thường” của việc nhận ra “ngôi nhà chung” này là: Ngay cả ý nghĩa của cái chết, mà bản chất chỉ là một sự chia xa, cũng không làm chúng ta nao lòng được nữa. Vì lẽ? Vì chính ta đã biết được “lối về” của ngôi nhà chung đó, và ta cũng “biết như thật” thế nào là “niềm hạnh phúc có một nhà quê.”
Vì thế, tuy hình thức của bút pháp là tản văn, hiểu theo ý nghĩa phân kỳ, lang bạt; nhưng nội dung của các “tản văn dị thường” này của NTKM lại mang ý nghĩa của hội tụ. Đó là “sự hội tụ” của một “nhà quê chung” không có phân biệt sắc tộc , biên giới, giới tính, hay tôn giáo.
“Sự hội tụ” này được thành tựu không phải qua các khẩu hiệu ồn ào kêu gào đoàn kết, không qua các cuộc cách mạng đẫm máu, không qua lý luận suy diễn của chủ nghĩa duy lý, duy vật; mà qua của những “cảm xúc chân thật vàng ròng” của các mối liên hệ linh thiêng, huyền nhiệm giữa người-với-người và người-với-thiên-nhiên.
Một tản văn nhưng lại có tác dụng hội tụ rất thần diệu như thế thì thật đáng để được gọi là “một tản văn dị thường!” Một cách nào đó, với ngôn ngữ tuyệt mỹ và chuẩn xác của mình, NTKM đã làm cho tái hiện lại trọn vẹn ký ức riêng/chung cho cả chính mình và độc giả với tất cả chi tiết và sự tinh tế đến độ kinh ngạc.
Giờ đây xin bạn hãy thử thả lỏng chính mình và làm y theo lời hướng dẩn cụ thể của tác giả để thử kinh nghiệm ký ức chung đó, tức là bạn hãy khoan thai làm theo đúng trình tự các thao tác chuẩn bị như sau:
(1) Theo cảm xúc mà đi.
(2) Nhắm mắt lại.
(3) Phút này đây.
Và sau đó hãy buông, phó thác cho ngôn ngữ NTKM làm công việc “dị thường” của nó:
“Theo Cảm Xúc Mà Đi”:
“…Nhắm mắt lại. Phút này đây.
… như nghe được hương trâm trâm bên vệ đường rầy xe lửa về quê nội, ai biết được mầu lấm tấm ngũ sắc kia đã cấy trong tôi mùi quyến luyến quê nhà đến vậy. Hễ chìm vào là nghe tiếng xe lửa xập xình, ánh nhìn cô gái nhỏ chạy lùi theo những hình ảnh vụt qua, bụi cây, ngọn núi, chiếc cầu nhỏ, những ô lúa xanh và con mương ốm chạy ngoằn ngoèo theo bờ ruộng. Lại như nghe được cả mùi thơm của đất bùn, đất ải quyện lẫn mùi phân trâu bò, mùi rơm rạ trong nắng trưa. Nếu không có một tuổi thơ gắn bó với mùi hương ấy thì chắc tôi không thể nào cảm được trọn vẹn cái êm ả, bình yên, mộc mạc của một làng quê, không chia được với ai kia nỗi nhớ nhà, không xẻ được với ai kia niềm hạnh phúc có một “nhà quê” để gậm nhấm lúc chia xa…
…và mêng mang hồ sen của một ngôi chùa sư nữ ở cạnh nhà thời thơ ấu, chắp cho tâm linh ta đôi cánh… có phải không trong tiếng tập vần hai chữ nhân ái thấm đẫm hương tinh khiết của cánh sen hồng, và tiếng chuông chùa đi chậm?
… và phổ độ hơn hết trên đời, “ba ơi mẹ ơi!” tiếng gọi đánh thức từng tế bào nhỏ trong thân thể ta, xao xuyến những dòng li ti màu đỏ đang chở nhịp sống. Mỗi bước ta đi là say mê theo mùi hương núm ruột đã một lần cắt lìa khỏi ta trong giây phút nhiệm mầu của khai sinh, “con ơi!” tiếng oa oa cột ta một kiếp người, lặn lội trôi theo…
… có phải hương một lời gọi ủ từ đóa hoa tiền kiếp, tới giờ long lanh nở đá vàng, cùng nhau nắng sớm mưa khuya, “mình ơi!”…
…tiếng hòa âm trong phút giây gọi “bạn ơi!” này bàn tay nắm lại cùng nhau. Ngọn lửa nhóm sáng một vòng quay quần, mỗi lúc chúng ta lại chụm thêm mỗi nụ cười, hương bầu bạn cho ngắn lại đêm thâu đường dài bạn hỡi...
Sau mổi tiếng gọi nhau: “ba ơi!, mẹ ơi!, con ơi!, mình ơi!, bạn ơi! bạn hỡi!”, chúng ta như được kinh nghiệm trở lại, ngay trong phút này đây, những “cảm xúc vàng ròng” phổ quát nhất của những sợi dây huyền nhiệm và thiêng liêng kết nối chúng ta với toàn thể sự sống.
Đó là những tản văn tuyệt mỹ, nó lãng đãng như những “ký ức của bóng.” Nó bay bay trong gió (ôi “bóng bay gió ơi!”) trong tiềm thức của ký ức chung/riêng không có thời gian. Tác dụng dị thường của nó là: “chắp cho tâm linh ta đôi cánh… trong tiếng tập vần hai chữ nhân ái thấm đẫm hương tinh khiết của cánh sen hồng”. Chúng ta có nghe được gì không, trong âm vang của “tiếng chuông chùa đi chậm?”
Đọc những tản văn trên tôi chợt có một ý nghĩ: Ước gì tản văn NTKM được đưa vào các bài tập đọc vở lòng của các em học sinh. Cũng như tôi đã từng học thuộc lòng bài tập đọc “Tôi đi học” của Thanh Tịnh. Tôi ước ao các em học sinh của các thế hệ mai sau sẽ biết cách gìn giữ các “ký-ức-chung” hay là “ngôi-nhà-chung” của những cảm xúc phổ quát về các mối liên kết rất huyền nhiệm của nhà quê, của ngôi chùa làng, của cha mẹ, của gia đình, của bạn bè đã được NTKM tái hiện trong những “tản văn dị thường” này.
Tôi cam đoan chắc chắn ràng những tản văn của NTKM nếu được dịch sang các thứ tiếng khác, thì “cảm xúc vàng ròng” đó vẩn không hề thuyên giảm hay mai một. Vì nó là cảm xúc chung mà con người ai ai cũng có. Ai sống trên đời này mà không có một quê hương? Không có một người cha, người mẹ, bạn bè, người thân?
Giờ đây giữa những xiêu đổ hoang vu của nền văn minh hậu hiện đại, chúng ta hãy cùng nhau gìn giữ, và giúp cho các hế hệ mai sau của con cháu chúng ta gìn giữ “ngôi nhà chung” cùng với “ký ức chung” đó:
“Căn nhà chung” đó phải chăng là “cái-quý-giá-nhất” trên thế gian này? Nó quý giá đến nổi Bùi Giáng phải lặn lội trong sanh tử luân hồi từ ngàn xưa trở lại chỉ để trao tận tay cho chúng ta, phó thác cho chúng ta cùng nhau gìn giữ nó? Như là gìn giữ một “bảo bối” giữa sức tàn phá khôn kham của hư vô:
“Đời xiêu đổ từ ngàn xưa anh trở lại
Giữa hư vô, em giữ nhé chừng này”
-Bùi Giáng
Ôi! Nhà Quê chung! Xin em hãy giữ nhé: chừng này!
.
,
Gửi ý kiến của bạn