LÊ THÁI TỔ: LÊ LỢI
Theo Lam Sơn Thực Lục, Lê Lợi người ở đất Lam Sơn, thuộc tỉnh Thanh Hóa, thân phụ húy là Khoáng, người hào hiệp, thường nuôi dưỡng tân khách, yêu thương đồng bào, gia đình ông ghét ác tế bần, Lê Lợi sinh ngày 6 tháng 8 Ất sửu (10-9-1385) là người con trai thứ ba cũng là con út trong gia đình.
Theo Nam Sơn Thực Lục của Nguyễn Trãi, viết rằng: Người nhà của Lê Lợi làm ruộng ở xứ Phật Hoàng, thuộc huyện Cổ Lôi (huyện Lôi Dương ngày nay). Tương truyền khi ấy có một nhà sư áo trắng cho Lê Lợi một cái thẻ tre, có chữ trên thẻ.
Chữ ghi rằng: Nghĩa là:
Thiên đức thụ mệnh. Đức trời chịu mệnh.
Tuế trung tứ thập. Tuổi giữa bốn mươi!
Số chi dĩ định. Số kia đã định.
Tích tai vị cập. Chưa tới... tiếc thay!
Một tương truyền khác, Lê Thận đi chài lưới nhặt được lưỡi gươm cũ đem tặng Lê Lợi, vợ của Lê Lợi lượm được chuôi kiếm có khắc hình long hổ đem lắp vào vừa vặn, gọi là gươm “Thuận Thiên” (sau này Lê Lợi làm vua bơi thuyền ngắm cảnh trên hồ, bị một con rùa lớn đớp lấy thanh gươm lặn mất, nên hồ ấy đặt tên là “Hồ Hòan Kiếm”). Từ đấy, Lê Lợi nghĩ rằng có lẽ trời đã trao cho ông quang phục đất nước. Quân Minh nghe danh tiếng ông, dụ ông ra làm quan cho chúng nhưng ông không nhận. Ông thường nói: “Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn lập công to, để tiếng thơm muôn đời, sao lại chịu bo bo làm đày tớ cho người ta”. Mùa Xuân năm 1418, Lê Lợi cùng 17 hào kiệt: Lê Thạnh, Lê Liễu, Đinh Lễ, Nguyễn Xí, Lê Lai, Trịnh Khả, Trần Nguyên Hãn... cùng tuyên thệ, giương cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn. Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, truyền hịch khắp thiên hạ tuyên bố mục đích đánh Minh phục quốc. Lúc ấy tướng sĩ không quá hai ngàn người, tiền của đều đem hết nuôi quân, cơm mỗi ngày một bữa, nương náu nơi rừng núi, sống rất kham khổ. Giáo thương, cung tên tự làm, có lúc bị bao vây, đói khát phải giết ngựa voi để nuôi quân. Lê Lai liều mình cứu chúa. Nhờ ý chí sắt đá của tướng sĩ Lam Sơn nên mười năm nằm gai nếm mật, giải phóng được đất nước.
Năm 1424, thế giặc mạnh, Vương bảo các tướng: “Đốt hết dinh trại của ta, giả vờ trốn lên miệt trên, rồi dẫn quân đi ngầm đường tắt đợi giặc”. Giặc trúng kế tưởng ta bỏ chạy, đem quân lên đóng vào dinh trại cũ của ta. Hôm sau, đích thân Vương cùng Lê Sát, Lê Vấn, Lê Bí, Lê Lễ, Lê Nhân Chú, Lê Ngân, Lê Chiến, Lê Khôi, Lê Bôi... cùng đem Nghĩa quân hãm trận. Giặc thua to, ta bắt tướng giặc là Chu Kiệt, chém Tiên phong giặc là Hoàng Thành. Bắt sống hơn nghìn người và quân giặc bị ta giết không sao kể xiết. Thừa thắng đuổi thẳng tới thành Nghệ An. Giặc vào trong thành cố thủ. Năm Ất tỵ (1425), Vương ra lệnh cho các tướng sĩ: “Dân ta khổ với quân nghịch tặc đã lâu, chúng ta không được đụng tơ hào nhân dân”. Nên nhân dân thi nhau đem thịt, rượu đón khao, Vương đem chia cho các tướng cùng lính tráng.
Tháng 10 năm 1426, Lý Triện, Đinh Lễ, Nguyễn Xí phục binh ở Tuỵ Động, đánh tan 10 vạn quân của Vương Thông, ta bắt sống 1 vạn người, giết chết 5 vạn người, Thượng thư Trần Hiệp, Lý Lượng của Tàu đền tội. An liễu hầu Liễu Thăng, đô đốc Thôi Tụ đem 10 vạn quân tiếp viện, từ ngày 10 đến 20 tháng 9 năm 1427, quân ta phục kích ở Chi Lăng, đánh tan viện binh, giết chết Liễu Thăng tại gò Đảo Mã, bắt sống Thôi Tụ và Hoàng Phúc. Vương Thông là chủ soái quân Minh viết thư xin hàng. Nguyễn Trãi đề nghị với Bình Định Vương: “Để chứng tỏ uy dũng của nước ta, xoa dịu sự thất bại nhục nhã của Tàu là một nước lớn, ta khoan hồng cho quân Minh về nước”. Bình Định Vương nói: “Đúng theo ý của ta”.
Tháng chạp năm 1427, Vương Thông tuyên thệ rút quân, Lê Lợi cấp 500 chiếc thuyền cho bọn Phương Chính, Mã Kỳ, 2 vạn con ngựa, lương thực cho bọn Hồng Phúc, Sơn Thọ về Tàu. Vua nhà Minh nghe báo quân Minh đại bại và chính sách khoan hồng của Lê Lợi, đã giúp lương thực, ngựa thuyền cho 100 ngàn quân Minh về nước. Vua Minh thức tỉnh nói: “Những kẻ bàn tán, không hiểu ý trẫm là muốn chấm dứt việc can qua, tất cho rằng nghe theo đề nghị Đại Việt là không oai hùng, nhưng nếu được nhân dân yên lành, trẫm không e ngại những lời đó”.
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi lấy đế hiệu Lê Thái Tổ, đóng đô ở Thăng Long, tên nước là Đại Việt. Định công ban thưởng: Nguyễn Trãi chức Phục hầu. Trần Nguyên Hãn chức Tả tướng quốc. Phạm Văn Xảo chức Thái bảo, các người khác theo công lao, cao thấp mà định thứ bậc. Lê Thái Tổ là vị vua sáng nghiệp, việc nước có nhiều thứ phải giải quyết:
- Ngoại giao: Sai sứ sang Tàu xin cầu phong, nhà Minh không chịu, nói phải tìm con cháu họ Trần; nên Lê Thái Tổ phải nhờ các quan viên và phụ lão trong nước, làm tờ khai rằng con cháu nhà Trần không còng ai nữa, nhà Minh mới chấp thuận. Từ đấy cứ ba năm phải triều cống một lần, mỗi lần phải có hai hình người bằng vàng, gọi là “Đại thân kim nhân” thay thế Liễu Thăng và Lương Minh bị quân Lam Sơn giết chết, đây là cách quỷ quyệt của Tàu để lấy vàng Đại Việt. Dù sao lúc bấy giờ nước ta còn yếu, phải chịu thiệt thòi ấy để tránh binh đao.
- Việc học hành: Vua cho lập trường Quốc tử giám, để dạy con cháu vua quan, con dân chúng nếu có đủ điều kiện cũng được vào học. Nhà vua ra lệnh các quan văn từ tứ phẩm trở xuống, phải đậu “Minh kinh khoa” tức là thi về kinh sử. Quan võ thì phải đậu Võ kinh. Những người theo tu đạo Phật, đạo Lão cũng phải thi về kinh điển các đạo giáo ấy, ai rớt thì cho hoàn tục.
- Phép quân điền: Lúc kháng chiến chống giặc Minh xong, nhiều người quan lại triều đình và quân nhân nhiều năm lo việc chiến chinh, đến lúc thanh bình không có một mảnh ruộng vườn. Lê Thái Tổ cho lấy công điền và công thổ chia cho mọi người, từ quan đại thần đến người già yếu, cô quả, vì vậy sự giàu nghèo trong nước không bị chênh lệch nhiều.
- Về quân ngũ: Khi còn giao tranh với quân Minh, Đại Việt có khoảng 25 vạn quân. Nay thanh bình thì cho 15 vạn người giải ngũ về làm ăn. Còn lại 10 vạn thì 5 vạn người về nhà làm ruộng, còn chỉ giữ 5 vạn tại ngũ rồi cứ luân phiên nhau.
- Luật lệ: Lê Thái Tổ ban hành luật lệ nghiêm ngặt, người đánh cờ bị phạt chặt ngón tay một phân, người cờ bạc chặt ngón tay ba phân. Nước nhà mới bình định, quốc gia còn thiếu thốn nên nhà vua ra lệnh: “Không được bày các nghi lễ khánh hạ tưng bừng tại cung đình, cấm quan lại không được tham lam”. Vua và quan điều bị hạn chế việc xa xỉ để làm gương cho nhân dân.
- Việc giết hại công thần: Lê Thái Tổ về công cuộc giải phóng đất nước, việc sang sửa quốc gia, nhân dân biết ơn. Nhưng vua nghe lời dèm pha của bọn hoạn quan đã giết oan: Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo. Chính ông Nguyễn Trãi cũng bị nhà vua cho giam vào ngục thất là hành vi đáng trách.
Năm 1433, vua Thái Tổ lâm bệnh, vua căn dặn Thái tử: “Trẫm gặp thời loạn lạc, mười năm dựng nghiệp gian nan, những điều cơ cực của nhân dân, những hoạn nạn trong thế sự đều đã trải qua. Thế mà sau khi lên ngôi, lòng người thật giả không dễ dàng biết hết. Những việc nghi ngờ thật khó khăn phán đoán. Vậy làm vua không khó ư?! Thái tử tuổi còn trẻ, hiểu biết chưa sâu, nghĩ chưa thấu. Chớ đổi phép cũ của Tiên vương, chớ bỏ lời dạy của hiền triết; chớ gần nữ sắc, phải lo chọn hiền tài, thân thương anh em, tông tộc, nghe lời can gián trung thần, lo nước thương dân”. Sau lời dặn dò thắm thiết, vua băng hà lúc 48 tuổi, làm vua được 6 năm.
Cảm phục: Lê Thái Tổ
Non nước điêu linh, đau đớn lòng!
Núi rừng nương náu, mặc gai chông
Công thành, đả viện, Tàu nao núng
Bắt tướng, phục binh, giặc phập phồng
Tụy Động, quân Minh tan tác chạy(a)
Chi Lăng, giặc Bắc rã rời vong(b)
Hàng binh tha thứ, cho về nước
Sang sửa quốc gia, giữ núi sông!
____________________
(a)- Tuỵ Động: Thuộc huyện Mỹ Lương, phía đông sông Đáy, phía tây có sông Bùi chảy qua sông Đáy. (theo ghi chú VN Sử Lược).
(b)- Ải Chi Lăng: Là vị trí hiểm yếu, trên con đường từ huyện Hữu Lũng đến thành phố Lạng Sơn, ở trong một thung lũng hình bầu dục, chỗ dài nhất 4 km, chỗ rộng nhất 1 km, lòng chảo nhỏ này có 5 ngọn núi nhỏ: Hàm Quỷ, Nà Nông, Nà Sảng, Kỳ Lân và Mã Yên, bên sông Thương. Nơi đây nhà Trần đã đánh đuổi quân Nguyên và nhà Lê (Bình Định vương) tiêu diệt quân Minh.
Nguyễn Lộc Yên
.
,
Gửi ý kiến của bạn