Nỗi khắc khoải của Phạm Quang Ngọc trong “Thương cái đầu biết gật”
Lâm Hảo Dũng
Phạm Quang Ngọc, một tên tuổi không mấy xa lạ đối với anh em văn nghệ ở Úc Châu, nhất là vùng Sydney- New South Wale. Bên cạnh hồn thơ bao la như những rặng bạch đàn, cây vỏ giấy giăng mắc khắp vùng trời Úc Châu; anh còn là một nhạc sĩ được nhiều người mến mộ qua các buổi trình diễn văn nghệ thân hữu hay sinh hoạt cộng đồng.
Ở anh, tuổi tác đã cao nhưng sức sáng tác không suy giảm chút nào. Năm vừa qua, anh đã trình làng “ Bước chân thơ”, năm nay lại gởi đến qúi bạn đọc tập thơ mới “ Thương cái đầu biết gật”.
Chúng tôi, mạn phép được giới thiệu thi tập này của anh.
Sự chuyển tải trong thơ tình anh tha thiết, cuồng bạo qúa chăng?. Hay sức sống vẫn căng đầy lồng ngực, dù thế nào, chúng ta vẫn ngưỡng mộ ở sự chân thành đến độ đó của anh:
“Đốt tình anh mối tình điên
Chẳng xang xế xự, chẳng len tơ chùng”
(Đốt tình trang 18)
Hoặc mạnh mẽ trong ý lời diễn đạt:
“ Ta ngờ em tóc rối bung
Bàn tay xẻ ngạnh, vai trùng khớp đau”
( Gật trang 20)
Qủa thật, cơn say mê cuồng nhiệt của tác gỉa được biểu hiện dâng cao chất ngất: “ Xin em một tí đảo điên- Để tôi chóang ngõ huyên thuyên nói cười” đến :“ Xin em góc phố vàng phai- Có tôi gãi xước hình hài tráng đinh- Xin trang 21).
Có phải đây là chân dung thật sự của tác gỉa qua những lời rất đáng ghi khắc, một con người chân phương, “có sao nói vậy”?. Sâu kín, khoáng đãng, bất chấp sự bình luận của thế nhân:
“ Nghe trong im lặng, rất tôi
Không chừng thế đó mà đời lại vui
Trỏ hư vô điểm mặt, cười
Khoét sâu ấn tượng, thụt lùi tháng năm
Rất tôi chẳng sợ lăng nhăng
Lăn ra giấc ngủ, vỗ nhầm chiêm bao”
( Rất tôi trang 25)
Tôi, của tác giả tràn đầy nhựa sống “tráng đinh’, ngổ ngáo, thách thức, mang chất giọng khinh đời, ngôn từ mạnh bạo, có thể được phóng ra từ những bất mãn hay chán chường:
“ Tôi hồn đổ ngọn thầu đâu
Trái tim hóa đắng đầu sâu nỗi buồn
Tôi dầm thân xác rập khuôn
Nỗi ra ngất ngưỡng, nỗi cuồng loạn tâm
Dỗ tôi người giải chiếu nằm
Tôi so le giữa góc lăn muộn phiền
Hồn tôi dốc nẻo lưng triền
Tiếng cồng vang vọng âm truyền động quan
Hồn tôi áo liệm mầu tang
Xác thân nằm giữa hai hàng nến phơi
Lòng tôi đổ trận mưa rơi
Ngó quanh sân nắng em cười chán chưa…
( Góc lăn muộn phiền trang 38)
Chỉ cần một nụ cười của giai nhân cũng đủ xóa tan mọi ưu tư, suy tưởng mơ hồ?
Đây có phải là chủ ý của tác gỉa khi anh sử dụng ngôn từ khá thẳng thắn, đôi lúc dung tục hoặc uẩn ức đầy ắp trong tâm trí do giông bảo bên ngoài tác động?
“ Mào gà! Mào gà! lại mào gà!
Chờ hết ba mươi, đến tết ta
Gà tre đem bán, khoe so cựa
Nhìn người qua lại, ngồi xếp re!!!
( Xuân tình trang 44)
Hy vọng, hạnh phúc, hoài nghi:” Chỉ khi quen em, tình yêu linh thánh- Anh trân mình thương Chúa đóng đinh-Em thơ trang 48”.
Tâm hồn thơ của tác gỉa mênh mông, nội tâm luôn giao động như một ca từ:
“ Vực đau mang nỗi sầu
Ối a đời khánh tận
Thoáng một chút xưa sau
Con kênh gìa lận đận
.
Ừ, dẫu khô vàng héo
Ừ, dẫu nhớ thở than
Giây tơ cuồng nhạc dạo
Đã lỡ một cung đàn
( Lỡ cung đàn trang 49)
Nét nhìn của tác gỉa qua ảnh hình thiếu nữ thời nay. Lẳng, nóng bỏng, gợi cảm chết người và nhà thơ cũng tan thành mây khói. Sự đột phá trong cách thể hiện mới của tác giả chăng?.
“ Mặt trời ở chỗ lõm sâu
Em thân quái nắng, tôi đầu mọc đanh
Mày em đậm nét chì xanh
Đôi môi đỏ mọng, điểm quanh viền hồng
Nụ cười nẩy chỗ chổng mông
Úm thâu thiên địa, tồng ngồng ngõ hoa
Tình tình ở chỗ xuýt xoa
Ối a cho lắm, rên la càng nhiều
Mặt ta tẩm đậm hương yêu
Rần rần đỏ ké vì siêu thuốc liều”
(Ồ, mặt trời trang 62)
Ngoài tình yêu nam nữ, chúng ta cũng bắt gặp những bài viết về tình người, tình đồng loại rất se sắt:
“ Quê hương còn thấy như đâu đó
Đâu đó còn nguyên một tổ đường
Những thân khô đét ngồi co quắp
Khấn vái trò đời bớt nhiễu nhương”
( Khấn vái trang 79)
Xã hội đầy bất công, những nông dân ,lao động ngày trước càng ngày càng thêm vật vã vì miếng ăn, trẻ thơ vắng tiếng trống trường, khác hẳn với những lời tuyên truyền hoa mỹ chỉ có trong chuyện thần thoại, cổ tích. Sau lưng đó là những gọng kềm, xích sắt, chiếc bánh vẽ không bao giờ nắm bắt thành hiện thực.
“ Niềm tin con nắng vạt
Vắt vẻo ngang lưng đồi
Mái tranh nghèo xơ xác
Áo mẹ vắt mồ hôi
Em hái từng đọt sắn
Trong cơn đói rụng rời
Tiếng trống còn văng vẳng
Không đến trường, bé ơi?”
( Bé ơi trang 80)
Bức tranh đời ngao ngán, chua xót hơn:
“Đời nay nghèo bán dâm
Gái xưa sầu búi tó
Thấy đó: thiên đường đỏ
Gái bán trôn chạy vòng
……………………….
Vung vãi đồ ăn chơi
Ngậm ngùi xưa tháo dạ
Trò ăn sống nuốt tươi
Cùm đeo thân đói lả…”
(Đùa vui tý mà! Trang 85)
Nỗi quan hoài trĩu nặng, từ cuộc di cư năm nào ,cuộc di tản năm nao và những chuyến tàu ra khơi định mệnh, vẫn là những vết chém đau buốt trong trái tim vốn dạt dào tình cảm của tác giả. Từ sông Hồng đến sóng Cửu Long ,hai dòng nước, chung một nhịp đập Việt Nam:
“ Phù sa chân nước còn mê sóng
Con sóng mê cuồng mặt đại dương
Hiện thân Giao Chỉ hồn xanh thẳm
Tiếng vọng quê hương phảng phất buồn
………………………………………..
Thiên địa chênh vênh khua tĩnh mặc
Có khi trông giống mắt ai cười
Quê cũ còn rồng thiêng hội tụ?
Dòng sông Hồng máu đỏ, thây trôi…
( Phù sa trang 86)
Người mẹ, mãi là một hình tượng được tôn thờ, do đó trong thơ tác giả, dù thi tập nào, cũng được nhắc nhở, đôi khi đậm nét, đôi khi mờ nhạt như sương sau lũy tre làng hay thôn xóm xa xôi ngày cũ:
“ Mẹ tôi hay mặc áo màu lam
Từ lúc quen em đổi áo vàng
Chẳng lẽ tôi về yêu hoa cúc?
Khi lòng bướm đã nhuốm màu tang!
(Áo đổi màu trang 87)
Ngựa già thấm mệt, chỉ mong yên bình với túi thơ bầu rượu, nghêu ngao vui thú yên hà, nhưng ở trời Tây dễ chừng có được cảnh trạng chung quanh như vậy?. Thôi thì , hít thở khói bụi xe đời thành phố, tìm vui trong những quán cóc, ngõ hầu có được không gian dĩ vãng:
“ Lượng đời đã thấm trên lưng nhọc
Chỉ ước rung chuông, tối động phòng
Sáng sáng, chiều chiều, bên quán cóc
Chẳng say mà trời đất mênh mông
……………………………………
Chê Tử Ngang quặn lòng quan tái
U Châu hề, vất vưởng lưng trời!
Kẻ trước, người sau, coi như bỏ
Quái gì mà gọi thế nhân ơi!?!
( Lưng nhọc trang 89)
Thơ nhập vào tâm hồn chảy suốt không ngừng, thơ là máu luân lưu trong cơ thể. Với tác giả, hai chữ thơ nhạc không thể tách rời. Cảm xúc viết dăm dòng thơ, cao hứng rung mấy sợi dây đàn, thế mà thống khoái. Cần chi áo mão công danh, bỏ mặc người bạn đời lẽ loi hiu quạnh. Chúng ta nhớ đến cụ Nguyễn Công Trứ qua câu:” Không công danh thà nát với cỏ cây”. Hậu sinh Phạm Quang Ngọc hẳn có ý tưởng trái nghịch- quan điểm xưa nay hay là cá tính phóng khoáng bẩm sinh của tác gỉa?.
“ Kìa Bá Lý Hề ư? Ta chẳng ham!
Hồn ta tơ tưởng với cung đàn
Mục Công kìa, dẫu muôn năm cũ
Cũng kể như bằng thắp nén nhang
…………………………………….
Ta tiếc thầm cho Bá Lý Hề
Tham quan nên dứt bỏ xiêm y
Ơ hờ, cái thú bên người ngọc
Điếc mũi đâm ngang, buột chửi thề…”
(Kìa, Bá Lý Hề trang 100)
Trong “Thương cái đầu biết gật”, con người cầm súng của tác gỉa luôn nóng bỏng, ray rức khôn nguôi. Tự trách và quan sát nhận định những người chung quanh. Tác giả có cảm nghĩ mình vẫn là một hành tinh lạc lõng, một vì sao cô đơn bên cạnh câu thơ của cụ Tú Xương:” Thiên hạ có khi đang ngủ cả- Tội gì mà thức một mình ta “.Thơ cất giọng chán chường, xót xa, ai hoài:
“ Giống như Phùng Quán
Những lúc ngã lòng
Tôi thường vịn câu thơ đứng dậy
Hình hài tôi xác xơ đổ gẫy
Tôi tự đọc thơ mình rồi vén môi cười tồ tồ
-Đ.M thằng lính gìa còn nước non gì nữa
Sao không về bàn viết làm thơ?
Chí lớn ư? Đã lạc quẻ ở chốn giang hồ
Ở đó mà ham rồi hợm mình qúa đỗi?
Bắt chước Phùng Quán
Kẻ bắn thơ mình đối đầu thù nghịch
“ Cách mạng mùa thu” đâu còn là chứng tích
( Kìa Phùng Quán trang 27)
Trái tim rất lính của tác giả ngùn ngụt lửa quân hành, tự chấp nhận sống chết, mặc thi cử bon chen, quẩn quanh trong thành phố đầy tiếng người. Ngoài kia , rộng mở với rừng xanh núi biếc, dễ thích nghi với con người không thể trụ một chỗ như tác giả chăng?.
“ Lúc trước đi lính, ta ham súng
Súng bắn quân thù, dấm dúi chùm lông đen
Ta cười cười, nói nói, như quên
Quên hiện tại, quên ngày mai sống chết
…………………………………………
Ta yêu đời lính hơn mảnh bằng chết rét
Khiến đời ta trở thành qủa thìu biu
Em lỡ yêu ta nên nét mặt buồn thiu
Khi biết ta chỉ giỏi trò nhắng nhít
Ta yêu đời lính cho dù sống chết
Không bao giờ lơi tay sáng lơ mơ
Là thân trai dẫu chết bởi màu cờ
Ta thanh thản hồn xuôi chín suối”
(Đời lính trang 56)
Hoặc đôi khi bất cần, bạt mạng:
“ Em ơi yêu lính chi cho khổ?
Sống chẳng yên nơi, chết động mồ!!!
( Bốc hứng trang 57)
Chúng ta thường được thưởng lãm về sự ví von, nhân cách hóa của thơ và từ đó dòng thơ mang dáng vẻ thi vị, nhẹ nhàng hơn như : màu thời gian, màu mắt, màu xanh, màu hy vọng, màu tương lai…Nơi đây,chúng ta được tác gỉa giới thiệu một màu mới rất tối tăm rất tang thương, đó là màu chủ nghĩa với lời lẽ chua cay, trách hận. Và người lính Phạm Quang Ngọc phải nghẹn ngào lên tiếng:
“ Cũng lạ, đời nay xé chiến bào
Hồn thiêng trổi dậy vít trời cao
Úa danh thiên cổ, vùi chinh chiến
Chiến tuyến hồn binh giật tóc gào
.
Màu cờ chủ nghĩa bất dung nhan
Dung nhan người sống phủ cơ hàn
Đời nay ngồi khóc tình vong tộc
Nấm mộ nhang tàn, cỏ mọc hoang
( Màu chủ nghĩa trang 69)
Với tác gỉa, chúng ta mơ hồ cảm nhận anh là một tay súng tay thơ. Thơ đeo đuổi anh xuyên suốt mọi sinh hoạt đời thường và lính - tình yêu ấy vời vợi thâm sâu ám ảnh anh cho đến ngày xuống mộ. Có ai bắt buộc , có áp lực nào xiết chặt để chúng ta quên qúa khứ như một chủ thuyết đã từng rao giảng ?:
“ Hắn méo mó hình hài
Tên lính thời cổ đại
Ngóng thơ trời biên tái
Đội nỗi khổ trần ai
.
Súng đạn bỏ ngoài tai
Một hồn thơ phấn chấn
Có đi hết đời này
Cũng hồn phi phách tán
.
Bày trò chơi súng đạn
Bốc khói bên quan tài
Khép cửa mộ trần ai
Nhập hồn về chín suối…”
( Lính thơ trang 97)
Thật là một lý thú bất ngờ khi khám phá trong “ Thương cái đầu biết gật” của Phạm Quang Ngọc. Tác gỉa, dường như no tròn bi phẫn cho cuộc đổi đời, cay đắng lúc lưu vong, do vậy trong thi tập này chúng ta mới có những dòng thơ thật sảng khoái, ôm chầm lấy tâm tư tác giả .
Những câu:” Áo phanh giữa lộ tay khoèo người qua- Nhập trang 8”
Hay :” Dương bản anh, âm bản em
Đè hai thứ bản khi lên giường nằm”
( Ghẹo em lục bát trang 26)
Đôi lúc cay cú, chua chát:” Thơ thành ba đá, tình xuyên lá- Buông trôi trang 30)
Tự châm biếm mình vượt qúa lằn ranh bản thân:
“ Chào nhà anh thơ Ngọc
Đúng là thơ con cóc
Bệnh mót tiểu hay lây
Đọc xong ta đi đây
Để trút bầu tâm sự “
( Vẫn ví là thơ Ngọc trang 32)
Và hợm hĩnh mình “ hết biết”: “ Bước lon ton chẳng khác con chó xù- Cà phê một mình trang 63) hoặc “ Làm thân nhái bén đem ra tẩm dầu - Rộn tình trang 90”.
Hết con chó xù,lại hóa thân rắn nước nay biến đổi thành mặt ngựa đầu trâu, có gì không ổn định trong lòng nhà thơ chăng?. Tự sỉ vã, châm chích mình “ cho rõ mặt thằng tôi”.
“ Thưa tôi: mặt ngựa đầu trâu
Húc bừa vô vọng, nỗi đau đoạn đành”
( Tự thú trang 94)
Bên cạnh những lời thơ phóng khoáng, bạt mạng, tác gỉa có những câu tỉ dụ rất mượt mà:
“ Trời gần đất trổ mình dây
Em nằm lơi vạt áo bay về người”
( Xuân thì trang 17)
Hay ngông cuồng bát ngát như sông:
“ Trai sông Hồng, gái Cửu Long
Phù sa nẩy sóng đòng đòng đó em”
( Tình ca dao trang 39)
Lãng mạn, tha thiết theo về với tác gỉa:
“ Bạn với trăng, trắc nết cùng thơ
Mai sau ta chết rủ chung mồ
Ràng thêm ít hạt huyền làm mối
Đừng rủ nắng về dệt cỏ khô”
( Rủ trang 66)
Phạm Quang Ngọc trong thi tập “ Thương cái đầu biết gật” đã gởi gấm nỗi lòng chân thật của mình qua nhiều thể tài sáng tác . Tác gỉa vẫn viết về thân phận con người, tình yêu quê hương , tự trào và nhất là vai trò người lính miền Nam.Bàng bạc như khói thuốc mỗi lần bật lửa, quyện kín thể xác của một tay súng tuổi đã gìa nhưng hồn không có tuổi bao giờ.
Nhiều câu thơ sống động, lời lẽ va chạm mạnh như tiếng đạn được bắn ra từ những uất hận, những dồn nén sâu thẳm trong con người tác giả.
Với hình hài tráng kiện, hơi thở căng đầy nhựa sống, một Phạm Quang Ngọc vẫn ngẩng cao đầu nhìn đời đầy lạc quan- thơ, nhạc anh từ đó mãi phiêu bồng.
Thi tập “ Thương cái đầu biết gật” của Phạm Quang Ngọc được trình bày & in tại Pacific Graphics & Printing năm 2014 – Úc Châu
- Hình bìa cuả họa sĩ Hồ Thành Đức.
Lâm Hảo Dũng
(PTT)
Van,BC- Can. Dec 24-2014- 5H07’ pm
.
,