Hôm nay,  

Từng Bước Nhỏ Thay Vì Những Tuyên Bố Vĩ Đại: Bài Học Về Thống Nhất Tự Do Dân Chủ

04/12/201400:00:00(Xem: 4029)

Dù Cộng Hòa Liên Bang Đức là một nước giàu mạnh, dẫn đầu trong khối Âu châu và thế lực trong thế giới,

lễ kỷ niệm 25 năm "Bức tường Ô nhục Berlin sụp đổ" (13/08/1961-09/11/1989) đã không nổi bật vì sự biểu dương lực lượng quân sự cũng như tài chánh. Mọi cố gắng tổ chức là để nêu cao giá trị tình người, sự gắn bó dân tộc, sức mạnh văn hóa và chiến thắng của tinh thần bất bạo động.

Cuộc thăm dò ý kiến trong những năm qua tại Đức cho thấy 70% dân chúng đánh giá cuộc thống nhất đất nước họ từ tốt tới rất tốt, và bằng lòng với tình hình chính trị, xã hội cũng như kinh tế hiện tại. Ngay 30% còn lại, với những chỉ trích nặng nhẹ, cũng dứt khóat không muốn trở lại tình trạng 25 năm trước.

Câu nói của cố Tổng thống Mỹ J.F.Kennedy ngày 26/06/1963 khi đứng trước Bức Tường trong cuộc viếng thăm Berlin của ông đã nói lên một sự thật đơn giản:

Tự do có nhiều khó khăn, và dân chủ không phải là tuyệt hảo. Nhưng chúng tôi không bao giờ phải dựng lên một bức tường để giữ lại những người dân của chúng tôi - để ngăn cản họ rời bỏ chúng tôi "Freedom has many difficulties and democracy is not perfect. But we have never had to put a wall up to keep our people in -- to prevent them from leaving us."

Cùng với dân tộc Đức, cả thế giới đã xúc động cực độ khi sự sụp đổ "Bức tường ô nhục Berlin" đến như với một phép lạ: Ngoạn mục. Bất thần. Nhanh chóng. Không đổ một giọt máu.

Nhưng không một người Đức nào cho tới ngày nay, kể cả các chính trị gia và các nhà tranh đấu dân chủ, tuyên bố là mình đã biết trước thời điểm hay cách thức xảy ra. Mọi người đều đồng ý, con đường đưa tới Tự Do và Thống Nhất đã rất dài, khó khăn, và chỉ có thể đạt được với chủ lực đóng góp và hy sinh của dân chúng cả hai miền Đông và Tây trong ý nguyện rõ ràng:

Chúng ta là nhân dân. Chúng ta là một dân tộc. (Wir sind das Volk. Wir sind ein Volk).

Chính phủ và nhân dân Đức cho tới nay luôn luôn khiêm nhường và nhớ ơn sự tiếp tay của những nước bạn.

Vào thời điểm cuối năm 1988, sự độc quyền của các đảng cộng sản hỗ trợ Liên bang Xô viết trong mấy chục năm đang trên đường tan rã. Một nhân tố quan trọng là vị Tổng thống Liên Xô đương nhiệm Mikkhail Gorbachov, đứng trước những thất bại và nguy cơ tan rã của các nước thuộc khối Xã hội Chủ nghĩa, đã sáng suốt bác bỏ chủ thuyết Brezhnev. Theo đó Moscow có thể dùng vũ lực can thiệp nếu bất cứ nước nào tìm cách tách ra khỏi sự kiểm soát của Xô viết (Như đã từng xảy ra năm 1956 tại Hungary, và năm 1968 tại Tiệp Khắc).Từ đó các diễn biến dân chủ ở Đông Âu và nhất là ở Đông Đức tăng hẳn nhịp độ.

Phát biểu trước đài tưởng niệm các nạn nhân của Bức Tường Berlin sáng ngày 9/11/2014, Thủ tướng Đức Angela Merkel tuyên bố "Thông điệp của Bức Tường Berlin là chúng ta có khả năng để xây dựng, chúng ta có thể chuyển đổi để sự việc trở nên tốt đẹp hơn, một thông điệp cho chúng ta ở Đức cũng như cho những người khác ở châu Âu và thế giới. Và trong tình hình ngày hôm nay, càng đặc biệt cho những người ở Ukraine, Syria, Iraq và trong nhiều, rất nhiều vùng khác trên thế giới, nơi mà tự do và nhân quyền đang bị đe dọa hoặc thậm chí chà đạp.

Wir haben die Kraft zu gestalten. Wir kưnnen Dinge zum Guten wenden. Das ist die Botschaft des Mauerfalls – sie richtet sich an uns in Deutschland ebenso wie an andere in Europa und der Welt, in diesen Tagen ganz besonders an die Menschen in der Ukraine, in Syrien, im Irak und in vielen, vielen anderen Regionen unserer Welt, in denen Freiheits- und Menschenrechte bedroht oder gar mit Fßen getreten werden.

Bối cảnh: quỵ ngã và điêu tàn.

Sự thành hình của "hai nước Đức" bắt nguồn từ sự qụy ngã sau thế chiến thứ hai (1939-1945) của Âu Châu, với hơn 49 triệu người thiệt mạng, các thành phố lớn bị tàn phá nặng nề, các khu công nghiệp hủy hại. Hạ tầng cơ sở kinh tế điêu tàn, hàng triệu người vô gia cư.

Riêng nước Đức, sau khi Berlin thất thủ và Hitler tự tử, chỉ còn lại là một mảnh đất nhỏ từ Na Uy phía Bắc cho đến phần trên của Ý, và sau ngày 9/05/1945 khi các lực lượng Đức cuối cùng đầu hàng vô điều kiện, đã bị các lực lượng Mỹ, Anh, Liên Xô và Pháp chiếm đóng. Ngoài ra Đức còn bị buộc phải phi quân sự hóa, phi phát xít hóa, và bị tịch thu tài sản để bồi thường chiến tranh.

Ngay sau đó, chính liên minh Đồng Minh đã bị rạn nứt vì xung đột ý thức hệ. Tại châu Âu, mỗi phía liên minh với nhau trong khu vực ảnh hưởng. Về phía tây, các nước Mỹ, Anh và Pháp đã lập ra Liên minh Bắc Đại Tây Dương (NATO). Về phía đông, Liên Xô lập ra liên minh với các nước Đông Âu khác với Hiệp ước Warsaw. Các nước phụ thuộc Hoa Kỳ chịu ảnh hưởng chính trị thông qua viện trợ kinh tế theo kế họach Marshall trong khi các nước kia trở thành các nước cộng sản phụ thuộc Liên Xô.

Năm 1949, với sự gia tăng căng thẳng của Chiến tranh Lạnh,nước Đức đã tách đôi trên cơ sở các vùng kiểm soát của Đồng Minh phương Tây và Liên Xô thành Cộng Hoà Liên Bang Đức (Tây Đức) và Cộng Hoà Dân Chủ Đức (Đông Đức). Để ngăn chận làn sóng người Đông Đức chạy sang Tây Đức ngày càng nhiều, bắt đầu từ năm 1952 biên giới giữa hai nước Đức được bảo vệ bằng hàng rào và có lực lượng canh phòng. Tuy nhiên ranh giới của các khu vực chiếm đóng giữa Tây Berlin và Đông Berlin lại vẫn còn bỏ ngỏ, vì thế mà gần như không thể kiểm soát được và trở thành một lỗ hổng để người dân chạy qua Tây Berlin. Từ 1949 đến 1961 khoảng 2,6 triệu người đã rời bỏ Đông Đức và Đông Berlin, trong số đó vẫn còn 47.433 người chạy trốn chỉ riêng trong hai tuần đầu của tháng 8 năm 1961. Vì những người này thường là những người trẻ tuổi và được đào tạo tốt nên việc di dân này là mối đe dọa cho sức mạnh kinh tế của Đông Đức và cuối cùng là cho sự tồn tại của "quốc gia" này.

Đêm 12 rạng sáng ngày 13/08/1961 phía Đông Đức bắt đầu cho phong tỏa các đường bộ và đường sắt dẫn đến Tây Berlin. Quân đội Xô Viết được đặt trong tình trạng báo động và hiện diện tại các cửa khẩu biên giới của Đồng Minh. Tất cả các liên kết giao thông còn tồn tại giữa hai phần Berlin đều bị gián đoạn.

Erich Honecker, sau này trở thành Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, lúc đó với cương vị là bí thư trung ương Đảng về an ninh đã nhân danh ban lãnh đạo Đảng Cộng sản, chịu trách nhiệm chính trị về việc lên kế hoạch và thực hiện việc xây bức tường. Cho đến tháng 9 năm 1961, ngay trong lực lượng canh phòng đã có 85 người đào ngũ sang Tây Berlin.

Bài học từ bạn và thù.

Trước mắt người dân Đức và thế giới, bức tường Berlin xây bằng bê tông, gạch và giây kẽm gai đã cụ thể hóa Bức Màn Sắt trừu tượng. Dân chúng thành phố Berlin đã ngay tức khắc phản ứng mãnh liệt với bức tường được chính phủ Cộng hòa Dân chủ Đức gọi là "Tường thành bảo vệ chống phát xít" và ngược lại đối với Cộng Hoà Liên Bang Đức là một "Bức tường Ô nhục".

Suốt ngày 13/08/1961 và những ngày nối tiếp, khắp Đông Berlin đã có nhiều cuộc biểu tình vài trăm người tự phát. Cảnh sát Nhân dân giải tán những người biểu tình bằng hơi cay, vòi rồng và dùi cui. Lác đác có những cuộc đình công nhỏ. Ngày 16/08, gần 300.000 người phía Tây Đức cùng với thị trưởng Willy Brandt tập trung trước tòa thị chính Schưneberg ở phía tây của thành phố, kêu gọi phản ứng mạnh mẽ của các cường quốc phương Tây và sự bảo đảm tự do cho Tây Bá Linh.

Nhưng các cường quốc phương Tây phản ứng rất chậm và dè dặt.

Bức tường Berlin đánh dấu sự thất bại kép của chính sách nước Đức trong thời gian đó.

Phía Cộng hòa Dân chủ (Đông Đức) đã thất bại trong nổ lực thiết lập một nước theo chủ nghĩa xã hội được dân chấp thuận, để đối ngược với chủ nghĩa tư bản Tây phương. Hàng triệu người, trong đó có nhiều lao động trẻ và có kỹ năng, đã rời bỏ Đông Đức để qua phía Cộng hòa Liên bang, gây một tình trạng xuất huyết trầm trọng.

Nhưng Bức Tường cũng cho thấy nổ lực của Chính phủ Cộng hoà Liên bang (Tây Đức) dựa vào các cường quốc Tây phương mong dùng chính sách "sức mạnh" để ép Liên Xô lui, hòng đạt được thống nhất nước Đức, cũng thất bại. Mỹ đã không can thiệp quân sự khi bức tường Berlin được xây dưới sự bảo vệ của Liên Xô. Họ tôn trọng những lĩnh vực mà Liên Xô đã đặt ảnh hưởng, như đã từng không phản ứng nhân dịp cuộc nổi dậy và bị Hồng quân đàn áp ngày 17/06/1953 tại Đông Đức và cuộc cách mạng năm 1956 tại Hungary.

Việc phát hiện rằng không có cách ngắn hạn nào để thống nhất nước Đức, và ngay cả sự liên lạc tình cảm thiêng liêng giữa người dân hai miền còn mắc nguy cơ bị gián đọan nói chi là sự thống nhất kinh tế hay chính trị, đã đưa tới một làn sóng xét lại cách suy nghĩ cũng như đường lối chính trị tại Cộng Hoà Liên bang Đức.

Willy Brandt và cú sốc thực tế.

Đêm 12 rạng sáng ngày 13/08/1961 khi được tin Berlin bị chia cắt, thị trưởng đương nhiệm Willy Brandt đã tức tốc bỏ dở cuộc vận động đang tới cao điểm tranh cử chức thủ tướng Cộng hoà Liên bang Đức để trở về Berlin dầu sôi lửa bỏng, chung vai sát cánh với người dân của mình. Vừa tới nơi, ông đã dứt khóat tuyên bố đường hướng đấu tranh tại buổi họp đặc biệt của quốc hội:

Một phe đảng tự gọi là chính phủ mà ra sức để bỏ tù người dân của mình: Trụ bê tông, dây thép gai, vùng đất chết, tháp canh và súng máy, đó là những đặc thù của một trại tập trung.

Nhưng chúng sẽ không tồn tại.

Trong tương lai, chúng ta sẽ đưa thêm nhiều người từ khắp thế giới đến Berlin, nhiều hơn chúng ta đã làm trong qúa khứ, để họ có thể nhìn thấy thực tế trần truồng, lạnh lùng và tàn bạo của cái hệ thống đã hứa hẹn một thiên đường trên trái đất. [...]

Eine Clique, die sich Regierung nennt, muß versuchen, ihre eigene Bevưlkerung einzusperren. Die Betonpfeiler, der Stacheldraht, die Todesstreifen, die Wachtrme und die Maschinenpistolen, das sind die Kennzeichen eines Konzentrationslagers. Es wird keinen Bestand haben. Wir werden in Zukunft noch sehr viel mehr Menschen als frher nach Berlin bringen, aus allen Teilen der Welt, damit sie die kalte, die nackte, die brutale Wirklichkeit eines Systems sehen kưnnen, das den Menschen das Paradies auf Erden versprochen hat. [...]

Trong suốt tháng 8/1961, tương ứng với những cảm xúc của người dân Berlin, Willy Brandt đã bước ra khỏi thế đứng chính trị đảng phái của mình để mang một vai trò phi đảng phái và hoàn toàn có tính cách dân tộc. Ông trực tiếp nhắc nhở các cường quốc phương Tây giữ vững lời cam kết bảo vệ nền Tự do của Tây Bá Linh, kêu gọi Mỹ có phản ứng mạnh mẽ với Liên xô, đồng thời tìm cách hướng dẫn người dân Berlin giữ bình tĩnh, tránh tạo dịp cho Đông Đức và Liên xô gây ra một cuộc tàn sát đẫm máu.

Tuy nhiên, những cố gắng của ông lúc đó đã không thành công hoàn toàn như ý muốn: Chính phủ Mỹ đã từ chối lời đề nghị và yêu cầu trợ giúp của ông; Tổng thống J.F.Kennedy sau nhiều ngày tránh né,không lên tiếng, đã viết thư khuyên Brandt từ bỏ hy vọng về một đất nước được thống nhất nhanh chóng, và phải chấp nhận thực tế.

Với Bức tường Berlin, sự tách đôi Đông và Tây Đức đã được "bê tông hóa" theo đúng nghĩa đen. Hy vọng cuối cùng của Willy Brandt dựa vào Berlin để ngăn chận sự phân chia nước Đức đã một sớm một chiều chỉ là ảo tưởng. Trong tức tưởi ông phải đối diện với một bên là tấn công vũ bão của kẻ thù, bên kia là sự tháo lui của đồng minh, chung quanh là sự nghi ngờ thù hằn của những nước láng giềng đã một thời bị đàn áp xâm chiếm bởi Đức Quốc Xã, và ngặt nghèo hơn cả là sự mâu thuẫn thế hệ trong toàn quốc: thế hệ sau thế chiến lên tiếng buộc tội gắt gao thế hệ cha ông mình đã vì lý do này hay lý do khác tiếp tay với độc tài gây ra cuộc thảm sát người DoThái và thế chiến thứ 2 nên mới đẩy dân tộc rơi vào tình trạng kiệt quệ, chia cắt bởi các thế lực Đông-Tây: Tại sao qúi vị có thể để những điều đó (bắt bớ và tàn sát) xảy ra cho người Do Thái? Tại sao cha mẹ lại tham dự trong đoàn thanh niên Hitler? Tại sao lại chấp nhận và tự nguyện tham dự chiến tranh? Từ 1945, sau khi thua trận, qúi vị có xét lại mình hay không? Đảng Quốc Xã và Lãnh tụ của nó (Hitler) không bao giờ có thể tung tác được nếu không có sự im lặng đồng ý và sự vô tâm bất động của đại đa số công dân Đức. Mọi người đều có trách nhiệm!

Willy Brandt: "Cách tốt nhất để dự đoán tương lai là tạo ra nó"

Nhưng chính hoàn cảnh khắc nghiệt cũng là dịp để người anh hùng nổi trội khỏi đám đông.

Bị dồn vào thế bí,Willy Brandt đã chứng tỏ khả năng vượt khỏi khuôn khổ những lối suy nghĩ và hành động thông thường, lội ngược dòng những xu hướng chính trị để tìm cách xoay chuyển thời thế.

Cái chết thảm thương của một thanh niên 18 tuổi bị lính canh đông đức bắn và bỏ mặc nằm vướng trong dây kẽm gai ra máu cho tới chết ở chân bức tường Berlin ngày 17/08/1962 là tác động khai mào cho "Chính sách phương Đông" của Brandt, đưa tới ký kết những hiệp ước rất quan trọng giữa Cộng Hoà Liên Bang Đức với các nước Đông Âu láng giềng và Liên Xô, để giảm bớt sự căng thẳng của Chiến tranh Lạnh với thế giới cộng sản, khiến Đông Đức không thể đơn độc cưỡng lại việc ngồi vào bàn hội nghị.Vì mục tiêu cuối cùng của "Chính sách phương Đông" chính là để tạo lợi thế đưa đến vô hiệu hóa cái Brandt gọi là "bức tường vô nhân đạo" chia đôi dân tộc Đức.

Biết không thể phá bỏ bức tường này bằng những lời tuyên bố vĩ đại, bằng nguyền rủa hay bằng bom đạn, Willy Brandt đã sáng chế một giải pháp cực kỳ tinh tế là đi từng bước nhỏ, tạo sự liên hệ và tiếp xúc văn hóa cũng như kinh tế cho dân chúng hai bên để chính sức mạnh đoàn kết của họ đục thủng dần bức tường ngăn cách kiên cố. Tháng 12 /1972 một hiệp ước ký kết giữa Tây và Đông Đức chấp nhận Đông Đức là một lãnh thổ độc lập và có chủ quyền (nhưng chỉ có một quốc tịch Đức duy nhất). Đổi lại, người dân Tây Đức được thăm viếng, xum họp với gia đình bên Đông Đức. Chính sự gặp gỡ, trao đổi tin tức và những giúp đỡ tài chính họ mang cho thân nhân đã đánh thức sự so sánh giữa cuộc sống tại hai phần đất nước và gây ý thức về Tự do Dân chủ nơi người dân Đông Đức.

Cùng với Egon Bahr, Willy Brandt gọi ý tưởng cách mạng của mình là "Đổi thay bằng cách xích lại gần", dùng sự cảm thông và liên hệ giữa con người với con người để phá vỡ ngục tù ý thức hệ. Tuy được giới trẻ và số đông ủng hộ nhưng cũng không thiếu những chông gai đến với ông từ không những nhà cầm quyền CS Đông Đức mà Willy Brandt còn chịu sự chống phá quyết liệt của những thành phần bảo thủ Tây Đức, ngay cả trong đảng Xã Hội (SPD) của ông, buộc tội ông "cấu kết với Cộng sản". Sự chống phá đôi khi gồm cả những thủ thuật ty tiện như vu cáo, bôi nhọ thanh danh, cuối cùng cũng đã đẩy ông đến bước phải từ chức Thủ tướng năm 1974 nhưng trong lòng người dân ông đã mãi mãi giữ chỗ đứng của một "Thủ tướng của trái tim" (Kanzler der Herzen).

Lấy can đảm "dứt khóat nhận lãnh trách nhiệm tội ác chiến tranh" làm nền tảng xây dựng tương lai.

Mặc dù nước Đức đã phải trả một cái giá rất đắt sau chiến tranh nhưng đối với thế giới điều này không chứng tỏ dân tộc Đức đã thực tình nhìn nhận lỗi lầm liên đới với Đức Quốc Xã mà có thể chỉ vì bị thua trận. Phải tới khi vị thủ tướng Đức Willy Brand qùy xuống trước đài tưởng niệm người Do Thái ở Warsaw ngày 7/12/1970 trong chuyến thăm Ba Lan của ông,những vết thương của các nạn nhân chiến tranh mới được phần nào xoa dịu: một cử chỉ can đảm cho thấy tầm vóc lớn của con người Willy Brandt và làm cả thế giới khâm phục. Đó cũng là dấu hiệu chân thành thiết yếu để thế giới khơi phục lại lòng tin tưởng vào dân tộc Đức. Tháng 12 năm 1971 Willy Brandt nhận giải Nobel Hoà Bình.

Lời cuối cho Việt Nam.

Trong bài phát biểu nhận giải thưởng Nobel Willy Brandt nhấn mạnh " nói chuyện Hoà Bình không đủ, chúng ta phải xây dựng Hoà Bình bằng hành động" Và ông đã chấm dứt bài, nhắc đến dân tộc Việt Nam và những nước nhược tiểu khác:

Tôi không thể ngưng nhắc nhở qúi vị và chính bản thân tôi cần phải nhớ đến những con người còn đang sống lầm than trong chiến tranh ngay trong giờ phút này, đặc biệt là trong tiểu lục địa Ấn Độ và Việt Nam. Cũng như ở Trung Đông và các khu vực khủng hoảng khác. Tôi không muốn ồn ào kêu gọi, vì đòi hỏi người khác phải giữ chừng mực, biết điều và khiêm tốn thì rất dễ. Tôi chỉ gởi lời cầu mong từ trái tim tôi tới tất cả những người đang có thế lực trong tay để gây chiến tranh, hãy nhường bước cho lẽ phải và gìn giữ Hoà Bình.

Aber ich kann nicht aufhưren, ohne Sie und mich an die zu erinnern, die in diesem Augenblick im Krieg leben und leiden, vor allem auf dem indischen Subkontinent und in Vietnam. Ich beziehe die Menschen im Nahen Osten und in anderen Krisengebieten mit ein. Mir ist nicht nach dem lauten Appell zumute. Es ist leicht, von anderen Maß, Vernunft, Bescheidung zu fordern. Aber diese Bitte kommt mir aus dem Herzen: Alle, die Macht haben, Krieg zu fhren, mưchten der Vernunft mchtig sein und Frieden halten.

Dân tộc Việt Nam đã được gì sau gần 40 năm thống nhất và không chiến tranh?

Nhìn sức mạnh xã hội, kinh tế của nước Đức, xuất phát từ một nền tảng chính trị TỰ DO DÂN CHỦ nhân bản và đứng đắn, người Việt chúng ta thay vì chỉ sôi sục niềm ao ước có lẽ nên nhập tâm khẩu hiệu "Can đảm đòi Dân chủ" của Willy Brandt làm ngọn lửa soi sáng cho mọi hoạt động của mình. Và xây dựng sự cảm thông, liên hệ giữa con người với con người để phá vỡ ngục tù ý thức hệ bằng cách mỗi người trong chúng ta tự quỳ xuống trước tổ tiên và dân tộc, thẳng thắn can đảm nhận lãnh trách nhiệm đã nhầm lẫn trong qúa khứ của chính bản thân mình.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chỉ ba tháng sau khi Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ lên cấp cao nhất trong hệ thống phân cấp ngoại giao trong chuyến thăm của Tổng thống Biden, người ta thấy Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đã trở thành nhà lãnh đạo thế giới mới nhất tăng cường quan hệ với Việt Nam với chuyến thăm Hà Nội trong tuần này...
Chuyến thăm Việt Nam hai ngày của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đã để lại nhiều hệ lụy cho nhân dân Việt Nam hơn bao giờ hết. Bằng chứng này được thể hiện trong Tuyên bố chung ngày 13/12/2023 theo đó họ Tập thay quan điểm “cộng đồng chung vận mệnh” bằng “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai” cho hai nước...
Sự ra đi của nhà tư tưởng và thực hành xuất sắc về chính sách đối ngoại của Mỹ đánh dấu một kỷ nguyên kết thúc. Trong suốt sự nghiệp lâu dài và có ảnh hưởng phi thường của mình, Henry Kissinger đã xây dựng một di sản mà người Mỹ sẽ khôn ngoan chú ý trong kỷ nguyên mới của nền chính trị cường quốc và sự xáo trộn trong toàn cầu. Thật khó để tưởng tượng rằng thế giới mà không có Henry Kissinger, không chỉ đơn giản vì ông sống đến 100 tuổi, mà vì ông chiếm một vị trí có ảnh hưởng và đôi khi chế ngự trong chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Mỹ trong hơn nửa thế kỷ.
“Tham nhũng kinh tế” ở Việt Nam đã trở thành “quốc nạn”, nhưng “tham nhũng quyền lực” do chính đảng viên gây ra để thu tóm quyền cai trị mới khiến Đảng lo sợ. Đó là nội dung đang được phổ biến học tập để đề phòng và bảo vệ chế độ do Ban Nội chính Trung ương công bố...
“Trong năm 2023 còn nhiều vấn đề đáng lo ngại, gây bất an cho xã hội. Các tội phạm trên các lĩnh vực tiếp tục gia tăng toàn quốc xảy ra 48.100 vụ phạm tội và trật tự xã hội tăng 18%.”
Việt Nam đang thương lượng mua chiến đấu cơ F-16 của Mỹ để tăng cường bảo vệ an ninh trước đe dọa ngày một lên cao của Trung Quốc ở Biển Đông. Tin này được truyền miệng ở Hoa Thịnh Đốn, tiếp theo sau chuyến thăm Việt Nam 2 ngày 10-11 tháng 9/2023 của Tổng thống Joe Biden. Tuy nhiên, các viên chức thẩm quyền của đôi bên không tiết lộ số lượng F-16 mà Việt Nam có thể mua với giá 30 triệu dollars một chiếc...
Số năm tháng tôi nằm trong tù chắc ít hơn thời gian mà nhà thơ Nguyễn Chí Thiện ngồi trong nhà mét (W.C) và có lẽ cũng chỉ bằng thời gian ngủ trưa của nhà văn Vũ Thư Hiên, ở trại Bất Bạt, Sơn Tây. Bởi vậy, sau khi đọc tác phẩm Hỏa Lò và Đêm Giữa Ban Ngày của hai ông (rồi đọc thêm Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Thung Lũng Tử Thần của Vũ Ánh, và Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp) thì tôi tự hứa là không bao giờ viết lách gì vể chuyện nhà tù, trại tù hay người tù nào cả.
Càng gần đến Đại hội đảng toàn quốc khóa XIV (2026-2031), đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) càng ra sức kiên định 4 nguyên tắc được coi là “có ý nghĩa sống còn đối với chế độ.”
Trời mưa thì buồn. Trời nắng thì vui. Mưa nhiều quá gây lụt lội, trở thành thảm cảnh. Nắng quá độ gây khô hạn, cháy mùa màng, gây đói khổ. Gọi là thiên tai. Có nghĩa thảm họa do trời gây ra. Hoặc chữ “thiên” đại diện cho thiên nhiên. Nhưng gần đây, vấn nạn khí hậu biến đổi, gây ra nhiều “thiên tai” có thể gọi lại là “thiên nhân tai,” vì con người góp phần lớn tạo ra khốn khổ cho nhau. “Thiên nhân tai,” nghe lạ mà có đúng không? Nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu là hiệu ứng nhà kính. Một số loại khí trong bầu khí quyển bao quanh trái đất hoạt động hơi giống như gương kính trong nhà kính, giữ nhiệt của mặt trời và ngăn nó trở lại không gian, gây ra hiện tượng nóng lên cho toàn cầu. Nhiều loại khí nhà kính này xuất hiện một cách tự nhiên, nhưng các hoạt động của con người đang làm tăng nồng độ của một số loại khí này trong khí quyển, cụ thể là: Cacbon dioxit (CO2), khí mê-tan, nitơ oxit, khí florua
Tuy lịch sử không nói đến, nhưng nếu chịu khó lục lọi đây đó, người ta sẽ tìm ra một giai thoại khá thú vị về việc bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam được Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc trong buổi lễ trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trường Ba Đình) ngày 2 tháng 9 năm 1945. Theo tường thuật của nhà báo Hồng Hà trên báo Cứu Quốc của Việt Minh, ông Nguyễn Hữu Đang là người đọc chương trình buổi lễ và giới thiệu Chính phủ Lâm thời cùng chủ tịch Chính phủ đọc Tuyên ngôn Độc lập. Ông Nguyễn Hữu Đang là Trưởng ban Tổ chức Lễ đài, ông chính là người đứng trước micro giới thiệu: “Thưa đồng bào... Đây là Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh.” Nói xong, ông lùi lại, nhường micro cho Hồ Chí Minh.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.