Hôm nay,  

Chuyện Tỵ Nạn Chính Trị Và Cái Giá Phải Trả Cho Tự Do (1975 – 2015)

17/09/201400:00:00(Xem: 6837)

Ghi nhận của Đoàn Thanh Liêm

Theo thống kê phổ biến vào năm 2010 của Cộng đồng Người Việt tại Liên Bang Úc châu, thì tổng số người Việt hiện sinh sống ở hải ngọai là vào khỏang 4.5 triệu người. Trong đó, thì hầu hết là người tỵ nạn chính trị – chứ không phải là tỵ nạn kinh tế.

Năm 2015 sắp tới, thì sẽ là 40 năm kể từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, bà con chúng ta đã lần lượt phải bỏ nước ra đi để mà tránh thóat khỏi cái nạn độc tài tàn bạo dã man của đảng cộng sản bao trùm lên cả nước từ miền Bắc vào đến tận miền Nam.

Nói chung, thì phần đông các gia đình tỵ nạn chúng ta đã lần hồi xây dựng được một cuộc sống ổn định, an lành tại các quốc gia dân chủ ở Âu châu, Mỹ châu, Úc châu và cả Á châu nữa. Và đặc biệt là lớp người trẻ thuộc thế hệ thứ 2, thứ 3 là con, cháu chúng ta - vào lớp tuổi từ 20 đến 50 – thì đã hội nhập khá thành công nơi các quốc gia sở tại nhờ tiếp nhận được một nền giáo dục tiến bộ về khoa học kỹ thuật hiện đại và do đó mà có được công việc chuyên môn cao với thu nhập khả dĩ bảo đảm được một nếp sống tiện nghi thỏai mái.

Thế nhưng, nhìn lại cái quá trình vượt biên di tản tỵ nạn của bà con thân thiết ruột thịt của chúng ta trong 20 năm từ 1975 đến 1995, thì không một ai mà tránh được nỗi bùi ngùi xúc động trước những cái chết tức tưởi đau thương thảm khốc của hàng chục vạn người ở ngòai biển khơi hay trong rừng sâu nơi mấy nước láng giềng như Lào, Cambodia.

Sắp bước qua năm 2015 - tức là sau 40 năm cuộc di tản tỵ nạn khởi đầu sau cái ngày oan nghiệt 30/4/1975 ấy - thiết nghĩ chúng ta cũng nên ôn lại cho bản thân mình và nhất là cho con cháu những khổ đau mất mát mà dân tộc chúng ta phải chịu đựng như là cái giá quá đắt để đổi lại cuộc sống tự do nơi những miền đất ở ngòai quê hương Việt Nam thân yêu của mình. Xin được trình bày vấn đề nhức nhối đó qua mấy mục sau đây:

I – Cái giá của Tự do: Bao nhiêu mạng sống con người đã bị chôn vùi ngòai biển cả, nơi rừng sâu?

Không thể nào có thể thống kê chính xác được về số thuyền nhân bị chết ngòai biển – mà chỉ có thể có con số phỏng đóan mà thôi. Theo tài liệu của tổ chức Cao Ủy về Người Tỵ Nạn của Liên Hiệp Quốc, thì ước lượng có đến từ 200,000 đến 400,000 thuyền nhân bị thiệt mạng ngòai biển khơi. Trong khi đó, thì con số thống kê về các thuyền nhân đến được các trại tạm cư ở các quốc gia Đông Nam Á cho biết tổng số là khỏang 800,000 người – con số này còn ít hơn tổng số người di cư từ miền Bắc vào miền Nam năm 1954 được thống kê là gần 1 triệu người.

Về số người đi đường bộ qua nước Lào hay Cambodia, thì không thấy có một con số ước lượng nào về số người bị mất tích nơi rừng sâu - do bị bọn cướp, quân Khmer Đỏ hay công an cộng sản giết chết hoặc do bệnh họan kiệt sức mà thiệt mạng. Có người ước đóan con số “bộ nhân” mất tích có thể lên tới vài ba chục ngàn người, nhưng không một ai mà lại có thể xác định rõ ràng về con số đó được.

Vì không thể nào mà có được con số thống kê chính xác về những người bị mất tích ngòai biển hay nơi rừng sâu, nên tôi nghĩ chúng ta chỉ còn một cách duy nhất là thâu thập mọi chứng từ của các thân nhân ghi lại danh tính của người bà con hay bạn hữu thân thiết của họ mà bị mất tích trong chuyến đi vượt biên vào ngày tháng nào, xuất phát tại địa điểm nào v.v...Rồi các tổ chức đặc trách - như Văn Khố Thuyền Nhân chẳng hạn - sẽ phân tích, đối chiếu và xếp lọai các tài liệu này, và sau đó sẽ trình bày thành một hồ sơ tổng kết về các nạn nhân bị mất tích trong lúc tìm cách vượt biên để tránh thóat khỏi chế độ độc tài cộng sản ở Việt nam. Hồ sơ tổng kết này sẽ là một tài liệu tương đối chính xác nhất - do chính các thân nhân vừa là chứng nhân vừa là nạn nhân của bao nhiêu vụ mất tích đớn đau mù mịt đó – mà họ đích thân đứng ra thông báo rộng rãi những chi tiết cụ thể cho công chúng biết vậy.

II – Một số trường hợp thân nhân và bạn hữu bị thiệt mạng hay mất tích lúc vượt biên mà tôi biết rõ.

Riêng bản thân, thì tôi biết rõ đến cả trăm người là thân nhân ruột thịt hay là bạn hữu thân thiết mà bị thiệt mạng hay mất tích ngòai biển khơi trong các chuyến vượt biên. Xin ghi lại danh tính của một số nạn nhân sau đây.

1 – Những bà con thân nhân ruột thịt.

- Đầu tiên là cháu Hòang Anh là con của cô Oanh em gái tôi. Năm 1979, cháu mới được 13 tuổi, cháu cùng xuống ghe đi với chị là Hòang Yến 17 tuổi. Không may, ghe bị đắm lúc gần tới một hòn đảo nên mọi người phải lội vào bờ và Hòang Anh đã bị chết đuối do bị cuốn đi bởi một con sóng mạnh chạy ùa vào đất liền – trong khi đó thì chị của cháu lại sống sót. Đây là một trong những nỗi đau thương mất mát lớn nhất trong gia đình chúng tôi.


- Về phía dòng họ Vũ Ngô của bà ngọai tôi tại làng Lục Thủy, thì có ít nhất hai người bị mất tích trong 2 chuyến vượt biển khác nhau vào các năm 1979, 1980. Đó là ông Vũ Ngô Chẩn và Trịnh Ngọc Cứ – bà con trong gia đình không hề được tin tức gì về các ông kể từ ngày họ xuống ghe rời khỏi quê hương.

- Còn đây là một chuyện chết chóc kinh khủng nhất của nhiều người trên chiếc ghe đi từ Sài gòn vào cuối năm 1978 – trong đó có chú Nghĩa là em họ của bà xã nhà tôi. Vì ghe bị mắc cạn lâu ngày trên một cồn cát hoang vu, nên nhiều người bị chết đói chết khát vì kiệt sức. Sau đó thì được một tàu đánh cá đưa về Đài Loan, nhưng giữa đường đi này thì còn thêm nhiều người bị chết nữa. Trong số người chết đó, thì tôi biết rõ Quý và Dũng là em và cháu của chị Nguyễn Đức Tuyên bạn thân thiết của tôi. Rồi cả ông bà Phú Vinh là thương gia có tiếng ở khu Ngã Ba Ông Tạ, chị Hồng là em của chị Đại Tá Kính nữa...

2 – Những người bạn trong giới luật sư, thẩm phán.

Trong số luật sư, thì tôi được biết rõ có ít nhất 3 người là nạn nhân bị thiệt mạng trong lúc vượt biên. Đó là các anh Đặng Như Kỳ, Đàm Quang Đôn và Nguyễn Hữu Lành. Anh Kỳ làm chung văn phòng với các bạn Vương Văn Bắc, Lê Sỹ Giai, Nguyễn Tường Bá, Đàm Quang Lâm. Anh Đôn có thời còn là một Dân biểu ở đơn vị Cần Thơ.

Riêng anh Lành, thì còn là Khoa trưởng Đại học Luật khoa Cần Thơ. Chị Lành là ái nữ của Giáo sư Phạm Đình Ái mà có thời đã làm Nghị sĩ tại Thượng Nghị Viện hồi trước năm 1975. Trên chiếc ghe của anh chị Lành, còn có hai cháu là con của Luật sư Bùi Chánh Thời, gia đình Kỹ sư Lê Văn Danh là một người họat động nổi tiếng ở Sài gòn trước 1975. Tất cả đều mất tích, không một ai sống sót để mà kể lại cái thảm cảnh này.

Về giới thẩm phán, thì tôi ghi nhận được có ít nhất 3 tường hợp mất tích, đó là các anh Tô lai Chánh, Nguyễn Văn Ngãi, Vương Quốc Cường.. Anh Chánh đã có thời họat động trong Tổng Hội Sinh Viên, sau thì làm sĩ quan quân pháp. Anh Ngãi trước năm 1975 thì làm Dự thẩm ở Biên Hòa. Anh Cường đã có thời làm Chánh án ở Quảng Ngãi.

3 - Một số bạn hữu khác.

Xin kể 3 trường hợp các người bạn bị mất tích. Chị Vũ Thị Kim Lan là người rất giỏi về sinh ngữ Anh, Pháp; chị còn mày mò học thêm cả Hoa ngữ nữa. Vào cuối năm 1979, chị dẫn cháu con cô em cùng đi vượt biên, mà cả hai đều mất tích.

Anh Trịnh Văn Xuân trước làm ở Nha Công Vụ. Anh chị dẫn con trai là bác sĩ cùng đi vượt biên vào năm 1978 - 79, nhưng tất cả đều mất tích.

Anh Nguyễn Hải là giáo sư tại Đại học Khoa học Sài gòn. Vào năm 1979, anh Hải dẫn theo cháu gái đi vượt biên, nhưng cả hai cha con đều bật vô âm tín, không một ai trong gia đình có được một tin tức nào về anh cả.

III – Chúng ta có thể làm được gì đối với những người mất tích?

Cho đến nay, chúng ta đã có nhiều tượng đài được xây dựng khắp nơi để tưởng niệm những thuyền nhân bị thiệt mạng hay mất tích. Đặc biệt là tổ chức Văn khố Thuyền Nhân đã tổ chức nhiều chuyến đi viếng thăm và sửa sang các mộ phần nạn nhân thiệt mạng tại các đảo ở Đông Nam Á. Đó là những cố gắng rất đáng biểu dương của những cá nhân và tổ chức vốn có sự quan tâm cụ thể và tấm lòng thương cảm sâu xa đối với những bà con gặp nạn trên đường đi tìm Tự do.

Nhưng thiết nghĩ chúng ta còn có thể làm được nhiều điều hơn thế nữa để biểu tỏ tấm lòng thiết tha gắn bó đối với tòan thể mấy chục vạn người đã thiệt mạng hay mất tích trên đường vượt biển, vượt biên. Cụ thể là một số việc đại khái như sau đây:

1 – Kêu gọi mọi thân nhân và bạn hữu của các nạn nhân để họ sẵn sàng thông báo chi tiết về danh tính người quá cố và trường hợp thiệt mạng hay mất tích.

Các thông báo này sẽ do một tổ chức thâu thập lại, phân tích, đối chiếu, xếp lọai và làm tổng kết về biến cố đau thương đã kéo dài đến mấy chục năm sau ngày 30/4/1975.

2 – Các Hội Ái Hữu, các đơn vị Quân Cán Chính v.v... nên mỗi đơn vị đứng ra thâu thập danh sách các thành viên của mình mà là nạn nhân. Rồi tổ chức những Lễ Tưởng niệm riêng biệt dành cho các thành viên đã thiệt mạng trong hòan cảnh bi đát đó.

3 – Tiến tới thành lập một Viện Bảo Tàng và Văn Khố dành riêng cho những nạn nhân đã thiệt mạng hay mất tích trên đường vượt biên đi tìm Tự do, v.v...

Trên đây chỉ là một gợi ý rất sơ khởi, người viết trông đợi sự hưởng ứng của đông đảo các bạn đọc - để chúng ta cùng nắm tay chung nhau thực hiện được một hành động có ý nghĩa sâu sắc nhằm bày tỏ lòng yêu mến thiết tha đối với tập thể những người đã bỏ mình trên bước đường đi tìm Tự do vậy./

Westminster California, Tháng Chín 2014

Đoàn Thanh Liêm

Ý kiến bạn đọc
18/09/201403:08:35
Khách
Sự trốn chạy nào cũng phải trả giá . hoặc tự do hoặc vĩnh hằng . Chiến tranh thì được làm Vua thua làm Giặc . Những ngày trước 30/4/1975 các anh đàm áp , tra tấn , nhục hình những người CS gia đình , con cháu và người thân của họ tội ác không thể kể hết nhưng họ không bỏ cuộc luôn luôn chấp nhận và chịu đựng lấy cái chết làm thước đo Sự trổi dậy của họ làm các anh hoảng sợ phải tháo chạy . Có vinh quang gì mà lập bảo tàng để ghi nhận sự hèn nhát của những người như các anh . Thiết nghĩ hãy quên quá khứ để giáo dục mọi thế hệ tinh thần dân tộc , truyền thống yêu nước , mỗi người góp phần nhỏ nhoi của mình để tự hào VN của tôi và giảm khổ nghèo cho đồng bào . Chính kiến chỉ là xu thế chính trị thời nào cũng vậy Tổ chức nào mạnh là lãnh đạo Quốc gia có gì không đúng đâu mà lăng tăng để rồi chúng ta nhồi xương nấu thịt bêu rếo lẫn nhau
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.