Hôm nay,  

Trang Sử Việt: Mạc Đỉnh Chi

26/08/201400:00:00(Xem: 3576)

MẠC ĐĨNH CHI
(1272 - 1346)

Mạc Đĩnh Chi, quê làng Lũng Động, huyện Chí linh, Hải Dương, nhà nghèo, cha mất sớm, ở với mẹ luôn hiếu hạnh và hầu hạ thầy là Chiêu Quốc Công rất chu đáo. Ông có hình hài nhỏ nhắn, nhưng lanh lẹ, rất thông minh. Tương truyền, ông sinh nhằm ngày thân, tháng thân, năm thân, trông dáng dấp giống khỉ. Năm 1304, ông thi đậu Trạng nguyên (32 tuổi), nhưng vua Trần nhìn tướng xấu xí, nên không hài lòng. Ông dâng vua bài: "Ngọc tỉnh liên phú" (tự ví mình như hoa sen ở giếng ngọc):

Giống quý ấy ta đây có sẵn
Tay áo này ta chứa đã lâu
Phải đâu đào, lý thô màu
Phải đâu mai trúc dãi dầu tuyết sương
Cũng không phải tăng phường câu ký
Cũng không là lạc thúy mẫu đơn
Cũng không là cúc là lan
Chính ta sen ở giếng vàng đầu non

Vua thấy văn hay chữ tốt, cho ông đậu Trạng nguyên và coi sóc văn khố quốc gia, sau đấy được phong Tả bộc xạ (như thượng thư). Ông đã đi sứ qua Tàu hai lần, lần nào cũng đối đáp câu đối, hoặc làm thơ rất lưu loát và luôn gìn giữ quốc thể cho Đại Việt.

1- Năm 1308, Mạc Đĩnh Chi đi sứ Tàu, đến cửa khẩu bị trễ giờ, quan giữ ải bảo phải chờ sáng hôm sau, mới được qua. Thấy sứ bộ ta cứ biện bạch, quan giữ ải bảo đối được câu đối thì được qua ải ngay, liền ra đề: "Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan". Nghĩa là: "Tới cửa ải trễ, cửa ải đóng, mời khách qua đường cứ qua". Một vế ra hóc búa đến 4 chữ quan và 3 chữ quá; rất khó, nhưng Mạc Đĩnh Chi nhanh nhẹn đối lại:"Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối". Vế đối của ông có 4 chữ đối và 3 chữ tiên, rất chỉnh với đề đã ra. Quan giữ ải nghe xong, rấtù phục tài của ông, liền mở cửa ải, để sứ bộ của Mạc Đĩnh Chi qua biên giới.

2- Mới đến Tàu, Trạng cỡi lừa ngắm cảnh kinh thành, vô tình đầu lừa chạm phải đuôi ngựa một quan Tàu đang cỡi phía trước, quan Tàu bực mình và xem thường ông, liền ra câu đối: "Xúc ngã kỵ mã, Đông di chi nhân dã, Tây di chi nhân dã?". Nghĩa là: "Chạm ngựa ta đang cỡi, là rợ phương Đông, hay rợ phương Tây", câu này lấy ở sách Mạnh Tử, dùng chữ Đông di để chỉ kẻ mọi rợ. Trạng cảm thấy bị xúc phạm trắng trợn, nên nghĩ phải dằn mặt bọn quan lại Tàu, liền đối lại: "Át dư thừa dư, Nam phương chi cường dư, Bắc phương chi cường dư?" Nghĩa là: "Ngăn lừa ta cỡi, hỏi người phương Nam mạnh, hay người phương Bắc mạnh". Quan Tàu vừa phục vừa tức, vì Trạng lấy chữ Nam phương trong sách Trung Dung, lời lẽ hào hùng, có ý bảo rằng chưa chắc người phương Bắc mạnh hơn người phương Nam.

3 - Vua Nguyên ở nước Tàu nghe tài ông, vua ra câu đối: "Nhật hỏa, vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố". Nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy mặt trăng. Vua Nguyên tự ví mình là mặt trời, Việt Nam là mặt trăng. Ông ung dung thẳng thắn đối lại: "Nguyệt cung, tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô". Nghĩa là: Trăng là cung, sao là đạn, chiều tối bắn rơi mặt trời. Vua Nguyên vừa thẹn vừa giận, nhưng lại khó trách.

4 - Từ đó, các quan Tàu vừa phục tài, vừa căm giận ông, nên trả đũa, ra câu đối: "vy, ly, võng, lượng tứ tiểu quỷ". Nghĩa là: "Quỷ vy, quỷ ly, quỷ võng, quỷ lượng là 4 thằng quỷ". Với 4 chữ này đều có chữ quỷ, có ý chê ông như quỷ và rất khó đối lại. Nhưng Trạng vẫn giữ điềm đạm, mỉm cười đáp ngay: "Cầm, sắt, tỳ, bà bát đại vương" Nghĩa là: Ta chẳng kém ai, cũng là bậc đại vương.

5 - Các quan Tàu, đuối lý, muốn làm mất mặt Trạng phải chê giọng nói của Đại Việt, may ra mới thắng. Họ ra câu đối: "Quých tập chi, đầu đàm Lỗ Luận, tri tri vi tri chi, bất tri vi bất biết". Nghĩa là: "Chim đậu đầu cành, đọc sách Lỗ Luận, biết thì bảo là biết, chẳng biết bảo chẳng biết, đó là biết đó"ù. Quan Trạng cảm thấy bị xúc phạm đến danh dự nòi giống, bọn quan Tàu chơi âm tri tri, để chỉ tiếng nói của ta ríu rít như chim. Nên Trạng thẳng thừng đối lại: "Oa minh trì thượng độc Châu Thư, lạc dữ độc lạc nhạc, lạc dữ chúùng lạc nhạc, thục lạc". Nghĩa là: "Chẫu chuộc trên ao đọc sách Châu Thư, cùng ít người vui nhạc, cùng nhiều người vui nhạc, đằng nào vui hơn". Trạng đã dùng âm lạc nhạc, để nhạo lại người Tàu, có giọng nói ồm ộp như chẫu chuộc.

6 - Gặp lúc Công chúa của vua Tàu mất, họ mời Trạng đọc một bài văn tế, các quan Tàu lại chơi hiểm, đưa giấy cho ông có 4 chữ "nhất" là 4 chữ "một". Ông không lúng túng mà ung dung hạ bút:

Nguyên văn:

Thanh thiên nhất đóa vân
Hồng lô nhất điểm tuyết
Ngọc uyển nhất chi hoa
Giao trì nhất phiến nguyệt
Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa
tàn, nguyệt khuyết!

Nghĩa là:

Trời xanh một đám mây.
Lò hồng một giọt tuyết.
Vườn thượng uyển một cành hoa.
Cung quảng hàn một vần nguyệt.
Than ôi! Mây tán, tuyết tiêu, hoa tàn, trăng khuyết!

7 - Có một lần, Thừa tướng của Tàu mời ông viếng nhà, ông thấy chim sẻ đậu trên cành trúc, giơ tay chụp bắt, nhưng đấy là chim thêu trên bức trướng giống y như thật. Thừa tướng và các quan cười ồ, Mạc Đĩnh Chi, biết bị lầm, nhưng không bối rối, lấy bức trướng ném xuống đất, giải thích: "Cành trúc tượng trưng người quân tử, chim sẻ tượng trưng kẻ tiểu nhân, chim sẻ đậu trên cành trúc, có hàm ý kẻ tiểu nhân đứng trên người quân tử, không hợp với đạo lý, nên ta phải bỏ nó đi". Các quan Tàu biết Trạng biện bạch, nhưng đều phục tài.

8 - Lần khác, sứ giả các nước cùng vịnh bài "phiến minh". Ông nhìn theo quản bút sứ Triều Tiên mà hiểu ý hai câu:"Nóng nực oi ả, thì như Y Doãn, Chu Công" (người được trọng dụng) "Rét buốt lạnh lùng, thì như Bá Di, Thúc Tề" (người bị ruồng bỏ). Ông nhanh trí viết: Chảy vàng, tan đá, trời đất như lò, người bấy giờ là Y-Chu đại nho. Gió bấc căm căm, mưa tuyết mịt mù, người bấy giờ là Di-Tề đói xo. Ôi, được dùng thì làm, bỏ thì nằm co, chỉ ta cùng người là thế ru!". Vua Tàu xem bài của ông vừa nhanh vừa hay, tặng ông chức "Lưỡng quốc Trạng nguyên". Ông làm quan thanh liêm nên vua quan Đại Việt đều hâm mộ.

Cảm phục: Mạc Đĩnh Chi

Tạo hóa sản sinh, Mạc Đĩnh Chi
Hiếu trung gìn giữ, miệt mài thi
Văn chương lỗi lạc, dâng liên phú
Luận thuyết rõ ràng, chứa lễ nghi
Đi sứ, văn thơ thâm thúy nghĩa
Phục tài, quan Hán nể nang vì
Thanh liêm tận tuỵ, lo non nước
Lưỡng quốc trạng nguyên, sử sách ghi

Nguyễn Lộc Yên

Ý kiến bạn đọc
26/08/201413:41:56
Khách
Bài viét về hiền tài nuóc nhà tuỵet quá! Không biét các em nhỏ ỏ Vn có đuọc hoc sử với các bài viét có giá tri cao như bài này không?
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đâu phải tự nhiên mà người Cộng sản Việt Nam rộ lên “phong trào” bàn về “hòa hợp dân tộc” sau 3 năm thi hành Nghị quyết 36
Khoa học tân tiến nhất của loài người ngày nay đã tìm đến Nguyệt cầu, Hoả tinh, và đã có các phi hành gia bay bổng ra ngoài tầng khí quyển
Khóa giảng hàng năm của đức Đạt Lai Lạt Ma là ngày hội cho Dharamsala... Hàng năm, cứ sau Tết Âm lịch
Khi một xã hội chỉ tìm thấy mẫu mực để bắt chước hay học hỏi từ ở bên ngoài thì rất dễ đánh mất bản sắc của mình vì thần tượng của họ
Trong đoàn quân Pháp sang đô hộ VN có một số quân nhân gốc Phi Châu ưa phá làng phá xóm khiến dân chúng Việt Nam căm ghét
Tình hình ở trong nước các tuần gần đây trước cuộc bầu Quốc hội (QH) vào 20.5.07 đã cho thấy hai chiều hướng phát triển
Trở về Việt Nam sau ba mươi năm lià xa, tôi đã đi không ngừng, Saigon ra Trung, Hà Nôi vô Nam; và mong sẽ quên chuyện non nước mình
Bước vào thế kỷ 21, việc xử dụng đa dạng năng lượng (energy diversity) trong chuyển vận là một trong những suy nghĩ lớn
Cuộc đấu tranh cho dân chủ trong nước đang nở rộ, và tấm gương bất khuất ngàn xưa của Việt Nam đang được lật lại từng trang
Việt Nam là một quốc gia có nhiều danh lam thắng cảnh, với niềm tự hào về nòi giống Rồng Tiên, một nền văn hóa đa dạng và một dân tộc siêng năng
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.