Hôm nay,  

GS Đỗ Quý Toàn Nói Chuyện Sôi Nổi ‘Đứng Vững Ngàn Năm’

31/07/201401:10:00(Xem: 6994)

WESTMINSTER (VB) – Cuộc nói chuyện của tác giả Đỗ Quỹ Toàn về tác phẩm biên khảo mới của ông -- Đứng Vững Ngàn Năm -- tại Viện Việt Học hôm Chủ Nhật 27-7-2014 đã mở ra một cuộc thảo luận hào hứng, từ chủ đề tại sao Việt Nam bị quân phương Bắc đô hộ cả ngàn năm mà không bị đồng hóa như các sắc tộ khác ở phía Nam Trung Quốc như Vân Nam, Đại Lý, Lưỡng Quảng... đã dẫn tới chủ đề thực tế hiện nay, rằng nên hiểu nghĩa “thoát Trung” ra làm sao, khi nền văn hóa Nho Giáo chân chính đã đào tạo ra những cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Tri Phương... tuyệt vời.

Đặc biệt, trong buổi nói chuyện, Giáo Sư Trần Ngọc Ninh đã trình bày về ngữ học Việt Nam với tính đối kháng quan quân Trung Hoa.

Buổi nói chuyện đã được trực tiếp truyền hình lên mạng http://freevn.net/ và lưu trữ nơi đây. GS Bùi Bỉnh Bân, người phụ trách truyền hình FreeVN.net, hôm Chủ Nhật cũng nói với Việt Việt Học rằng ông muốn làm một chương trình đặc biệt, thu hình GS Trần Ngọc Ninh, muốn nói gì thì nói, nói cả trăm giờ hay dài bao nhiêu cũng được, vì GS Trần Ngọc Ninh đã hơn 90 tuổi rồi, và những suy nghĩ của GS Ninh thật là sâu sắc.

Nhà văn Phan Tấn Hải cũng trình bày với GS Bùi Bỉnh Bân rằng ông luôn luôn xem GS Trần Ngọc Ninh là quốc bảo của dân tộc Việt Nam vì những đóng góp về văn hóa và ngữ học Việt.

Nhà văn Đỗ Quý Toàn -- với bút danh Ngô Nhân Dụng khi viết Đứng Vững Ngàn Năm -- đã được MC Lâm Dung giới thiệu sơ lược về tiểu sử.

Ông Đỗ Quý Toàn nói rằng cụ Trần Trọng Kim khi viết cuốn Việt Nam Sử Lược có để riêng một chương “Hậu Quả Thời Bắc Thuộc,” trong đó nêu câu hỏi vì sao VN chưa trở thành 1 tỉnh của TQ, và cụ Trần trả lời là “nhờ nghị lực riêng và tính cách riêng.”

Họ Đỗ nói, cụ Trần nói gọn, nhưng cũng đủ, vì nghị lực là ý chí của tổ tiên mình, còn tính cac1h là quan niệm, là cách sống, là đời sống xã hội dị biệt với văn minh TQ.

blank
GS Đỗ Quý Toàn đứng nói chuyện, bản đồ cổ VN chiếu lên màn ành trắng.

Họ Đỗ cũng nói rằng sử gia Lê Thành Khôi trong một tác phẩm viết bằng tiếng Pháp cũng hỏi vì sao VN bị cai trị cả ngàn năm mà chưa mất nước, rồi họ Lê trả lời “vì dân VN giữ tiếng nói riêng."

Họ Đỗ cũng kể rằng sử gia Keith Taylor trong tác phẩm “The Birth of Vietnam” xuất bản bởi UC Berkeley đã ghi nhận rằng yếu tố giúp VN có bản sắc đứng vững sau ngàn năm bị cai trị vì (1) tiếng nói riêng đã giúp VN không bị đồng hóa, và (2) sự hình thành hệ thống Phật Giáo tại VN tuy truyền thừa từ Trung Hoa nhưng đã đaò tạo ra một giới trí thức mới có suy nghĩ độc lập.

Ông Đỗ Quý Toàn nói thực ra không riêng gì Phật Giáo, trong lịch sử đã cho thấy nhiều quốc gia được lập quốc nhờ tôn giáo, như trường hợp Ba Lan nhờ Thiên Chúa Giáo khi giới trí thức Ba Lan sử dụng tôn giáo như một công cụ để lập quốc.

Họ Đỗ cũng nói về sử gia Phạm Cao Dương với tác phẩm Lịch Sử Đại Cương nêu ra rằng ngoaì ngôn ngữ Việt dị biệt với tiếng Tàu, còn có yếu tố rằng kinh tế VN đã đủ mạnh để nuôi lực lượng quân sự đối kháng.

Họ Đỗ cũng nói, sử gia Lê Mạnh Hùng nêu thêm lý do nhờ dân số Việt lú đó gia tăng nhanh, dẫn tới kinh tế tăng nhanh để nuôi quân đánh Tàu.

Họ Đỗ nói, tất cả các lý do trên đều xác đáng, nhưng nên thấy là miền Nam Trung Hoa có nhiều sắc dân còn giữ ngôn ngữ riêng, như tiếng Quảng Đông, tiếng Tiều, tiếng Hẹ... nhưng họ đều tự xem như cùng một quốc gia Trung Hoa; trong khi đó, cùng tiếng nói nhưng lại đòi tách riêng như trường hợp Mỹ lập quốc, chống lại Anh quốc tuy cùng tiếng nói, hay như Thụy Sĩ dùng 4 tiếng nói chính thức nhưng vẫn tự xem là một quốc gia.

blank
Từ phải: GS Bùi Bỉnh Bân (đứng) nói với GS Trần Ngọc Ninh và GS Đỗ Quý Toàn, rằng Freevn.net mời GS Trần Ngọc Ninh nói bao nhiêu giờ cũng được để lưu giữ những suy nghĩ cho đời sau.

GS Đỗ Quý Toàn cũng nói rằng VN trước thời bị Trung Hoa đô hộ đã có nền văn minh Đông Sơn độc đáo, có ngôn ngữ gốc Môn-Khmer dị biệt với tiếng Tàu, trong khi đó Nho Giáo và Phật Giáo vào VN lại là cơ hội đaò tạo giới trí thức suy nghĩ độc lập vì những người như Nguyễn Trãi một là sản phẩm đẹp của Nho Giáo – và họ Đỗ nói, quan trọng nhất là một tình tự dân tộc, vì phải có tình tự dân tộc từ nhiều ngàn năm mới có những huyền sử khó tin như chuyện 18 đời vua Hùng Vương, trong khi đó Tây Phương thế kỷ thứ 19 mới có khái niệm về dân tộc.

Họ Đỗ phân tích rằng khaí niệm về quốc gia của dân tộc VN đã có từ thời Hai Ba Trưng, nghĩa là từ thế kỷ thứ 1, vì câu ca dao thời này được dùng để tuyên truyền chống Tàu là:


Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng.

Khaí niệm “người trong một nước” là khaí niệm rất trí thức, và rất độc lập. Trong khi đó, bân Taù vẫn còn là thời các lãnh chúa, thời Chiến Quốc... chưa có khái niệm quốc gia.

Họ Đỗ dẫn thêm sử gia người Pháp Paul Mus khi nghiên cứu sử VN đã nói rằng Việt Nam độc đáo nhờ nền văn hóa, nhờ Đaọ Phật và nhờ tổ chức xã hội “xã thôn” đã biến mỗi làng là một khúc của con rồng VN, dù mất khúc nào thì con rồng VN cũng vẫn trường tồn được.

GS Trần Ngọc Ninh được Viện Việt Học mời lên nêu ý kiến, đã cảm ơn GS Đỗ Quý Toàn đã viết sách bằng tâm, chứ không phải bằng trí, và sách này nên có trong tủ sách mọi gia đình Việt, vì sách này khôngt hể tóm tắt trong 1 giờ mà được.

GS Ninh nói, “Lịch sử nhiều ngàn năm cho thấy rằng khi nào Taù mạnh là chúng ta nguy; khi nào Tàu yếu, chúng ta mới mạnh được. Cách mạng đánh Pháp là đúng, nhưng khi trương bảng hiệu Cộng Sản thì chẳng còn là cách mạng nữa. Nguyễn Trãi ngày xưa viết Bình Ngô Đại Cáo đã ghi ‘Vống xưng nền Văn hiến đã lâu’ thì Văn hiến là cái để làm dân tôc này dị biệt dân tôc kia, là tất cả những gì xây dựng trong dân tộc, là ngôn ngữ và đặc biệt chúng ta là nền văn minh lúa nước, trong khi Tàu là lúa mạch trên đất.”

GS Trần Ngọc Ninh nói rằng tiếng Việt là ngôn ngữ gốc Môn-Khmer-Thái, nên khác gốc với tiếng Tàu. Trong thời gian đô hộ VN, người Tàu đã lấy một số ngôn ngữ Việt để chuyển thành tiếng Tàu, như chữ “sông” của tiếng Việt qua nhiều thời gian chuyển thành chữ “giang” của Tàu, hay chữ “nàng” trong Việt ngữ được Tàu mượn để chuyển thành chữ “nương.”

blank
Tham dự, chăm chú lắng nghe.

GS Trần Ngọc Ninh cũng nói rằng VN đã có Hiến Pháp từ nhiều ngàn năm trước, đó là bản Hiến Pháp vô tự, không có chữ, nằm trong chiếc bánh chưng được vua Hùng Vương phê chuẩn, vì bánh này buộc lạt tre chia làm 12 ô, tượng trưng các ô ruộng trong đó có công điền (ruộng dùng cho việc công của làng), học điền (để làm học bổng cho học sinh)... trong đó các ô ruộng chung quanh là quyền người cày có ruộng, một công nhận quy chế tư sản.

GS Trần Ngọc Ninh cũng nói về tính đối kháng trong ngôn ngữ Việt: khi bị Hán Tộc cai trị, ông bà mỉnh gọi kẻ địch là “quân Hán” dần dà chữ “Hán” thành chữ “hắn” để chỉ người mình không ưa; tương tự, khi Ngô Quyền lên nắm quyền ở Trung Hoa, ông bà mình gọi người Taù là “thằng Ngô”... và rồi khi Tào Tháo nắm quyên Phương Bắc, ông bà mình mới gọi họ là “quân Tào” và dần dà thành “Tàu” cho gọn.

GS Trần Ngọc Ninh cũng nói rằng Phật Giáo không chủ trương giết người nhưng đã đem lại ý thức về tự do, bình đẳng (trong Phật Tánh) trong khi đào tạo giới trí thức mới, dẫn tới cuộc nổi loạn đầu tiên của Phật Giáo tại VN là của Lý Bôn thế kỷ thứ 6, tự xưng là Lý Phật Tử, thời nhỏ vào chùa tu học, văn võ kiêm toàn, dấy binh khởi nghĩa, đuổi quân của Lương Vũ Đế về Tàu, tuyên bố Giao Châu độc lập và đổi tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Hà Nội, xưng là Lý Nam Đế.

GS Ninh nói, lúc đó các cụ có biết gì về độc lập đâu, chỉ biết kháí niệm bình đẳng của nhà Phật thôi, và khởi nghĩa vì lòng từ bi thương dân.

Cô Kim Ngân của Viện Việt Học hỏi rằng bây giờ với tình hình làm sao phải ‘Thoát Trung” để khỏi bị Taù xâm lăng.

GS Đỗ Quý Toàn nói, chúng ta nên phân biệt là chúng ta chống chính quyền TQ với chính sách xâm lăng, nhưng không chống lại nhân dân TQ; trong khi đó, văn hóa Nho Giáo nên giữ và nên khai thác những gì có thể làm sức mạnh cho dân tộc, cũng như Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan, Singapore vẫn nằm trong nền văn hóa Nho giáo... riêng người Nhật học Nho giáo rất kỹ, hơn chúng ta nhiều.

GS Toàn dẫn ra rằng Nho giaó chân chính không hề có tư tưởng ngu trung như thời Tống Nho bóp méo, trong khi đó Mạnh Tử đã kêu gọi rằng người dân có quyền giết vua hung bạo, vì hung bạo như Trụ Vương không đáng gọi là vua.

GS Đỗ Quý Toàn nói, chúng ta hiện đang trong thời cách mạng thông tin, nên cần sự “lựa chọn thông minh,” như thế khi tiếp cận các nên văn hóa toàn cầu, chúng ta đều giữ những giá trị đẹp để học hỏi.

GS Đỗ Quý Toàn cũng nói rằng người Việt có những độc đáo, chứ không hề kỷ luật như người Nhật, vì điển hình của cuộc cách mạng bình đẳng nam nữ sớm nhất của nhân loại là khi Công Chúa Tiên Dung bỏ nhà đi theo trai... Trong khi khái niệm Khổng Giaó về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cần, kiệm, liêm, chính vẫn là giá trị phải giữ vậy, nên sống “phải lựa chọn thông minh.”

Ý kiến bạn đọc
01/08/201404:34:10
Khách
Dựa vào lịch sử thời xưa lúc vua quan và nhân dân đồng lòng quyết tâm chống Tàu để kết luận bây giờ cái truyền thống yêu nước, chống Tàu vẫn còn nguyên để chống lại Tàu , phải chăng ông Đỗ có hy vọng hão huyền hay không? Bây giờ bọn CS lãnh đạo dựa vào Tàu để tồn tại, nắm quyền vơ vét làm giàu trên xương máu dồng loại, trái ngược với tình thế thời xưa, ông lấy gì khẳng định nước Việt vẫn sẽ chống Tàu đô hộ ??? Chỉ biểu tình chống Tàu thôi đã bị chúng đánh đập dã man, tù đày hành hạ. Ai đánh giặc cho chúng nữa ? Trường hợp ông, ông có hy sinh chống giặc cho chúng không ? Đề nghị ông ngồi ngẫm nghĩ cho nó chín trước khi viết sách . Ai bảo đảm là dân chúng sẽ đánh Tàu ? Phải dẹp bỏ CS trước thì mới hy vọng nước Việt và dân Việt thay đổi tinh thần
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.