Hôm nay,  

Bước Đường Của Cải Lương: Dò Tìm Một Thời Âm Nhạc

28/06/201400:00:00(Xem: 4737)
Tôi biết gì về cải lương? Thiệt sự, không bao nhiêu hết. Đó là lời rất mực chân thật.

Nhưng tôi còn biết một điều nữa: những người như tôi, những người sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn trong hai thập niên trước 1975, đều có cơ duyên tắm người trong dòng sông cải lương, không dám nói là tinh tuyền nhất nhưng hẳn là cả mọi tầng bậc của âm thanh này. Do vậy, khi cầm lên cuốn sách “Bước Đường của Cải Lương” của tác giả Nguyễn Tuấn Khanh, với tấm hình bìa của một dàn nhạc kiểu như đờn ca tài tử chụp ở Sài Gòn năm 1916, tôi cảm thấy rất mực thân thiết như có hình ảnh mình đang ngồi khề khà uống rượu và nghe những tiếng đờn kìm một thời, dù bản thân mình chỉ là một kẻ ngoại đạo với làng âm nhạc.

*

Đó là hình ảnh ở một tiệm hớt tóc phía sau ga Hòa Hưng, nơi lối vào xóm Chuồng Bò với hai bên là các ao rau muống, mỗi chiêù đều có tiếng đờn, tiếng ca vọng cổ vọng ra từ chiếc la-dô (radio)... trong khi mâý bác lớn tuổi ngồi đánh cờ tướng với nhau. Tiếng radio này thường vẫn có nhạc buồn như thế, và chỉ sôi nổi khi Huyền Vũ tường thuật những trận túc cầu...

Thế đó, tôi đã đọc cuốn “Bước Đường của Cải Lương” trong tâm thức của một cậu bé bước lại xóm cũ, nơi có tiệm hớt tóc và các bác đánh cờ tướng giữa tiếng nhạc cải lương...

Khi cầm lên sách này, tôi lập tức nhớ ngay ký ức thời thơ ấu, có một giọng ca nữ thổn thức trong hồn:

Ngày mai đám cưới người ta

Vì sao sơn nữ Phà Ca lại buồn...

Không, tôi không thấy 2 dòng lục bát trong ký ức thời thơ ấu đó trong sách của Nguyễn Tuấn Khanh. Hiển nhiên là tác phẩm do Viện Việt Học xuất bản này không có ý kể lại những tác phẩm cải lương – đúng ra chỉ một phần những tác phẩm liên hệ tới mục tiêu dò lại bước đường hình thành cải lương.

Và tôi khám phá ra một điều, một mạng lưới chằng chịt do tác giả Nguyễn Tuấn Khanh đưa ra về cải lương: cuốn sách viết y hệt như một cuốn phim trinh thám. Đó là những gì rất mực dị thường đối với một tôi, một người hít thở với dòng nhạc cải lương nhưng không hề hiểu gì về âm nhạc.

*

Những khám phá trong sách này cực kỳ là mới đối với tôi.

Giáo sư Nguyễn Văn Sâm trong Lời Giới Thiệu cho sách này, đã viết rằng tác giả Nguyễn Tuấn Khanh đưa ra hai điều Giáo sư thấy là quan trọng:

“1. Cải lương hình thành từ Ca Ra Bộ, mà Ca Ra Bộ là biến thể của Ca Thay Phiên, mà Ca Thay Phiên là từ Đờn Ca Tài Tử...”

Và điều thứ nhì là: bộ môn cải lương xuất phát từ 1919, 1920... dựa vào các chứng cớ cụ thể do Nguyễn Tuấn Khanh tìm ra, chớ không phảỉ là nghe kể.

Thực ra, những năm 1919 hay 1920 không đánh thức gì trong bộ nhớ của một cậu bé Sài Gòn như tôi. Nhưng chính chặng đường tác giả đưa tới các kết luận trên mới là dị thường: cuốn “Bước Đường của Cải Lương” là một cuốn phim trinh thám kiểu Mỹ (rất là kiểu phim trinh thám Hoa Kỳ), trong đó nhân vật chính là Nguyễn Tuấn Khanh trở ngược vào quá khứ, dò tìm nơi này, nơi kia, xem những âm thanh cải lương xuất phát từ đâu, từ tiếng đờn của ai, từ dòng thơ ban đâù phổ nhạc nơi nào... tất cả được ráp trở lại để thành cuốn sách 332 trang.

Và vì viết như một cuốn phim trinh thám Hoa Kỳ, bnhững bước đi dò tìm quá khứ trở thành sinh động, không chỉ là chữ viết, mà là các hành động và diễn tiến cụ thể hiện ra trước mắt người đọc. Và trong sách là những thông tin rất mực là mới đối với tôi. Nghĩa là, một kho tàng quá khứ của cải lương được mở ra từng lớp màn sân khấu... Sách đọc thích thú là như vậy.

*

Ngược đường vào quá khứ... Độc giả sẽ nhận ra một không khí nghệ thuật kịch nói được gọi là Ca Ra Bộ của năm 1917, tại nhà của Tống Hữu Định ở Vũng Liêm, bài ca Tứ Đại “Bùi Kiệm - Nguyệt Nga” được ba người trìnhd iễn bằng hình thức vừa ca, vừa ra bô: Cô Ba Định thủ vai Nguyệt Nga, ông giáo Du vai Bùi Ông, ông giáo Diệp Minh Ký vai Bùi Kiệm.

blank
Bìa sách “Bước Đường của Cải Lương”.

Trích ở trang 106 (dĩ nhiên, chỉ ghi lời, trên giấy không ghi được nhạc):

“Bùi Kiệm:

Đêm khuya lúc canh ba
Kiệm trong phòng đương ca
Bỗng trên lầu than thở,
Kiệm muốn tường duyên cớ
Bước lên xảy thấy,
Một cô má đào
Biếng lược dắt, trâm cài,
Song le nhan sắc ai tày?
Kiệm làm màu giả ho.”(hết trích)

Ngôn ngữ tất nhiên rất mực Nam kỳ Lục tỉnh. Độc giả như bị kéó vào một không gian khác của Miền Nam, một thời rất xa xưa, trong vở tuồng có một nhan sắc ai tày và một thanh niên “làm màu giả ho.”

Không, không phải chuyện tình tác giả Nguyễn Tuấn Khanh muốn kể, nhưng chỉ là một góc đường tác giả dẫn chúng ta tới, để chỉ rằng Ca Ra Bộ khai sinh nơi đây, ở Vũng Liêm năm 1917.

*

Hay là như dò tìm bước đường của bài Dạ Cổ Hoài Lang.

Nguyễn Tuấn Khanh dò ngược các ca từ và thanh nhạc qua từng thời kỳ, để ghi các chặng đường biến đổi, dòng chú thích ở trang 198:

“- Dạ Cổ Hoài Lang: tên dùng từ lúc ban đầu (nhịp đôi năm 1919).

- Vọng Cổ Hoài Lang: tên dùng từ năm 1923 lúc vẫn còn nhịp đôi cho tới hết thời kỳ nhịp tư (khoảng năm 1930).

- Vọng Cổ: tên dùng từ thời kỳ nhịp tám đến bây giờ (khoảng năm 1930).”

Ghi nhận rằng, năm 1919, bài Dạ Cổ Hoài Lan do Cao Văn Lầu sáng tác, và bài này khi phổ biến đã thay địa vị của bài Tứ Đại.

Và rồi, Ca từ và Thanh nhạc của bài Dạ Cổ Hoàì Lang biến đổi với rất nhiều dị bản qua cả một thế kỷ, thế là việc phục hồi nguyên bản gần như là bất khả. Ngay cả khi ông Cao Văn Lầu vẫn còn sống, và ông không thể nhớ chính xác những gì ông đã viết.

Nguyễn Tuấn Khanh ghi laị lời bình của soạn giả Trần Ngọc Thanh sau 18 năm nghiên cứu về nhạc Tài Tử, rằng “... hầu hết các Bài Bản đều có điểm dị biệt và chỉ giống nhau ở chỗ: Không có Bản nào hoàn toàn đúng với nguyên bản.”

Và đó là hiện tượng Tam sao Thất bổn của cải lương.

*

Tam sao Thất bổn, thế là chúng ta chạy rượt theo một dấu vết, và rồi tới ngã sáu, ngã bảy... không biết nên rượt theo lối nào. Nơi đây, tài năng nhà biên khảo Nguyễn Tuấn Khanh lộ ra.

Những phức tạp chằng chịt của quá khứ được Nguyễn Tuấn Khanh dò tìm -- một cách gian nan và lý thú.

Thí dụ, lý do Cao Văn Lầu (1892-1976) rời lục tỉnh để lên Sài Gòn cũng đầy bí ẩn.

Tác giả Đắc Nhẫn trong một cuốn xuât bản năm 1987, được Nguyễn Tuấn Khanh dẫn ra là cậu Cao Văn Lầu từ gia đình bần nông ở Long An bị bóc lột nên tha phương cầu thực, và bài Dạ Cổ Hoài Lan sáng tác năm 26 tuổi có “nỗi đau vì thế sự đaỏ điên”

Nhưng nghệ sĩ Ba du kể lại (và do Đắc Nhẫn ghi) rằng Sáu Lầu được nhóm nghệ sĩ lục tỉnh phân công làm 1 bản nhạc để đáp lễ nghệ sĩ Miền Trung tới thăm. Bài Dạ Cổ Hoài Lan ra đời như thế, và là ghi lại hình ảnh “người thiếu phụ có chồng đi lính phương xa,” lúc đó Sáu Lầu làm chạy giấy cho Tòa Sứ Bạc Liêu, trong một đêm gác Tòa Sứ, kế bên nhà tù, dòng nhạc miên man chạy ra từ tâm thức.

Tiến sĩ Nguyễn Thuyết Phong trong một tác phẩm xuất bản năm 1989 ở California cũng nói tương tự, nhưng không dẫn nguồn.

Tác giả Trung Tín trong một bài viết kể rằng Sáu Lầu lên Sài Gòn, ngụ ở nhà Hai Ngưu năm 1978, có kể cho Hai Ngưu nguyên nhân ông làm bài Dạ Cổ Hoài Lang là buồn chuyện gia đình mà sáng tác Dạ Cổ Hoài Lang. Và Bách Khoa Tự Điển Mở trích dẫn lời Trung Tín như nguồn chính xác.

Cuốn “Bước Đường của Cải Lương” chứng minh rằng lời Trung Tín không đúng (và Wikipedia cũng trật) vì cụ Cao Văn Lầu từ trần năm 1976.

Tác giả Nguyễn Q. Thắng trong “Tự Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam” đã viết về Cao Văn Lầu là “suốt cuộc đời, ông thà chịu nghèo không phuc vụ quân cướp nước và các thế lực vọng ngoại,” nhưng cuốn “Bước Đường của Cải Lương” của Nguyễn Tuấn Khanh chứng minh ngược lại rằng Cao Văn Lầu từng làm việc ở Tòa Sứ (theo Đắc Nhẫn), từng làm việc ở Tòa Bố (theo Tiến sĩ Nguyễn Thuyết Phong) làm ở Nhà Đèn (theo Trung Tín)... Nghĩa là, làm cho Tây.

Tương tự, Nguyễn Tuấn Khanh dò tìm để trả lời những câu hỏi về năm sáng tác, về nguyên nhân sáng tác Dạ Cổ Hoaì Lang, về Ca Từ (nghi vấn là thơ của nhà sư trụ trì Chùa Vĩnh Phước An hay dựa trên bài Nam Ai Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn...).

Trong sách có nhiều tài liệu, hình ảnh khó tìm. Sách này là một cuốn phim trinh thám rất khoa học.

Khi tôi gấp sách lại, cảm giác bay bổng y hệt như vừa mới xem phim truyền hình trinh thám với nhân vật chính là Adrian Monk hay Ben Matlock -- rất nhiều những gì mình tưởng là đã biết đều bị lật ngược hay lại dẫn tới ngõ đường khác với các chứng cớ mới.

Sách đề giá 20 đôla. Đôc giả muốn tìm mua sách nàỳ, xin liên lạc:

Nguyễn Tuấn Khanh

Kn95131@yahoo.com
.
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.