Hôm nay,  

Bài Học Thất Bại Của Những Nhà Ái Quốc Nam Kỳ: IV-Hội Nghị Toàn Quốc 10-1953 tại Dinh Đốc lý Sài Gòn

05/06/201400:00:00(Xem: 6006)

Các đảng phái quốc gia và nhơn sĩ vận động " Giải pháp Bảo Đại " để vừa đặt Pháp trước một người đối thoại có chánh nghĩa không cộng sản, vừa tách Việt Minh ra khỏi chánh trường việt nam. Trước biến chuyển thuận lợi của tình hình, Cựu Hoàng bắt đầu hành động. Nhưng những ý kiến trao đổi với Bollaert ngày càng gặp nhiều khó khăn hơn. Trong viển ảnh giải pháp việt nam, cái nhìn của Pháp quá cách xa với những đề nghị của Cựu Hoàng đưa ra vì Pháp vẫn muốn giữ Việt nam Độc lập trong Liên Hiệp Pháp. Mà Độc lập trong Liện Hiệp Pháp là gì? Liên Hiệp Pháp là gì? Thì trong những cuộc thảo luận, giới chức Pháp cũng không phân giải cụ thể được.

Trước những nhập nhằng của Pháp vì tham vọng thuộc địa, Cựu Hoàng đưa ra những ý kiến dứt khoát để đem lại độc lập cho việt nam đã làm cho Pháp ngạc nhiên. Theo một báo cáo thì người Pháp tới Hồng kông yết kiến Cựu Hoàng đều không khỏi kinh ngạc. Cựu Hoàng không còn là một thanh niên bay bướm lái ca-nô, một tay chơi bài sành điệu nữa. Ở Paris, giới chức Pháp giựt mình vì những đòi hỏi của Cựu Hoàng không khác gì Hồ Chí Minh, trái lại, còn nghiêm chỉnh hơn. Cựu Hoàng cho rằng Hiệp Ước ký hôm 6 tháng 3/1946 giựa Pháp với Hồ chí Minh thì vai trò của Hồ chí Minh không gì khác hơn là một phát ngôn nhơn cơ hội.

Pháp tìm hiểu sự thay đổi này ở Cựu Hoàng. Một nhơn viên tình báo lấy được bản văn ghi chú viết tay ở Cụ Trần Trọng Kim theo đó " những người chủ trương chế độ quân chủ và những người quốc gia không ai nghĩ tái lập Cưụ Hoàng ở ngôi vua như người Pháp đang muốn. Cựu Hoàng trở lại làm vua có nghĩa là thực dân Pháp trở lai Việt nam như trước năm 1939 (*). Ngoài ra, Chánh quyền Pháp được báo cáo là dân chúng việt nam mong muốn Cựu Hoàng trở lại chánh trường việt nam để sớm giải phóng đất nước thu hồi độc lập.

Báo cáo của tình báo Pháp cũng cho biết thêm dân chúng chán ghét Việt Minh, không phải vì đó là Việt Minh, mà vì Việt Minh khủng bố, sát hại dân lành, chưa thấy đem lại một dấu hiệu gì tích cực cho độc lập.

Phía quốc gia thì nôn nóng tìm cho được độc lập. Độc lập thật sự, không còn kẹt trong cái vòng Kim cô “ Liên Hiệp Pháp” nữa.

blank
Hình ảnh các nhà hoạt động Nam kỳ thập niên 1950s.

Biến chuyển mới bất ngờ

Kịp tới khi Pháp thay đội Chánh phủ. Ngày 27 / 6 / 1953, Ông Joseph Laniel được chỉ định lập Chánh phủ mới. Sau phiên hợp Nội các đầu tiên, Chánh phủ Laniel, ngày 3/7/1953, đưa ra một bản tuyên cáo về ba nước thuộc địa Việt, Miên và Lèo ở Đông dương theo hướng Chánh phủ Pháp sẽ có giải pháp trả lại chủ quyền cho quốc dân của ba nước đó. Bản văn chẳng những được ba nước Đông dương đón nhận nồng nhiệt, mà cả thế giới đều hoan nghênh sự chuyển hướng chánh trị của Pháp phù hợp với tình hình thế giới.

Việt nam, sau khi nghiên cứu thông điệp ngày 3/7/1953, Quốc trưởng Bảo Đại và Chánh phủ nhận thấy Chánh phủ Pháp đã bày tỏ thiện chí nhằm tìm cách thỏa mản nguyện vọng Độc lập của toàn dân việt nam. Nhưng Quốc trưởng và Chánh phủ cũng thấy đó chỉ mới là thiện chí. Sẽ thay đổi sự ứng xử với Phái chỉ khi nào Việt nam thu hồi nền độc lập thật sự. Tức Pháp phải chuyển giao cho Việt nam tất cả những quyền hành mà Pháp còn giữ về chánh trị, ngoại giao, kinh tế xã hội và quân sự. Để Việt nam phải độc lập thật sự, không còn bi ràng buộc trong cái Liên Hiệp Pháp.

Ngày 20/7/1953, Quốc trưởng bảo Đại từ Buôn-ma-thuột về Sài gòn họp với Chánh phủ để thảo luận tìm cách đòi Pháp phải trao trả độc lập trọn vẹn cho Việt nam. Ngày 1/8/1953, Quốc trưởng đi qua Paris để thương thảo với Chánh phủ Pháp. Trước khi lên đường, Quốc trưởng tuyên bố với quốc dân lý do của chuyến đi:

“ …Năm 1948, thể theo yêu cầu của các nhà đại diện chánh đáng của đồng bào, tôi đã nhận làm phát ngôn nhân cho dân tộc. Khi đó vì tình thế trong nước chưa ổn định nên tôi không thể trưng cầu dân ý được hết thảy các gia đình và các chánh đảng toàn quốc. (…) Để hướng dẩn hành động của tôi, tôi đã hỏi ý kiến của hết thảy những người khả dĩ phát biểu được nguyện vọng của quốc dân. Và đây, tôi đã thâu góp được tài liệu đầy đủ và nhờ sự thống nhứt ý chí mạnh mẻ của đồng bào, tôi có thể nhơn danh dân tộc việt nam mà lên tiếng. Tôi sẽ tỏ bày cùng người Pháp sự cố gắng, những nỗi khó khăn, những sự hy sinh của chúng ta, tôi sẽ làm cho người Pháp biết Quân đội quốc gia thành lập với một tin tưởng cao siêu nhường nào. Lực lượng do gốc tích ở đất nước, cội rễ ở dân tộc, và do đức tính cổ truyền của chúng ta đào tạo, ngày nay đang dự bị đảm nhận những chức vụ cực kỳ khó khăn, đó là một điểm tôi cũng làm cho người Pháp nhận định. (…)

Để đáp lại lời mời ngày 3/7/1953 của chánh phủ Pháp, tôi sẽ giải bày những nguyện vọng của dân tộc việt nam đòi hỏi độc lập hoàn toàn …(…)

Tôi tuyên bố cùng đồng bào, sự tin tưởng của tôi vào tương lai và đồng bào tin chắc rằng ý nghĩ của tôi sẽ không xa đồng bào bao giờ”.

Đồng thời, chánh phủ ở Sài gòn tiến hành, theo tinh thần tuyên cáo 3/7/1953, yêu cầu chánh quyền Pháp ở Sài gòn chuyển giao qua chánh phủ việt nam tất cả những cơ sở hành chánh, kinh tế, xã hôi.

Ở Huế, ngày 11/8/1953, đại diện các đoàn thể, tổ chức tập họp lại hằng chục ngàn người để bày tỏ sự ủng hộ Quốc trưởng trong sứ mạng tìm độc lập cho xứ sở. Ở Hà nội, ngày 4/9/1953, các đoàn thể, dân chúng, kéo nhau tời nhà Hát lớn để nghe đại diện các đoàn thể nói về những diển tiến mới của tình hình việt nam. Trong Nam, các ông Phạm Công Tắc, đại diện Cao Đài, Lê văn Viển, đại diện Bình Xuyên, Lương Trọng Tường, đại diện Phật giáo Hòa Hảo, …gởi điện qua Paris bày tỏ lòng triệt để ủng hộ Quốc trưởng.

Ngày 4/9/153, một thứ “Hội nghị Đoàn kết” được triệu tập tại Sài gòn do đại diện tôn giáo, đả,h phái quốc gia và nhơn sĩ như Giám mục Ngô Đình Thục, Hòa thượng Tuệ Tăng, Cố vấn Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Công Bộ, Hộ pháp Phạm Công Tắc, Bs Nguyễn Xuân Chữ, … đưa ra lời kêu gọi thành lập một “Khối Đoàn kết Quốc gia”. Một tổ chức Liên Hiệp Ái quốc cũng được Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc thành lập với một bản tuyên ngôn ca ngợi sự hy sanh của bao nhiêu chiến sĩ đã nắm xuống mà đất nước vẫn chưa có độc lập. …Nay hoàn cảnh thuận tiện nên cần có một phong trào đoàn kết lớn để tranh đấu cho nền độc lập …( **)

Ngày 3/9/1953, Thủ tướng Nguyễn văn Tâm đi qua Paris để yết kiến Quốc trưởng về việc thành lập một Phái đoàn đại diện quốc dân qua tham dự thảo luận với chánh phủ Pháp về nền độc lập việt nam. Một tuần sau, Thủ tướng trở về với huấn thị của Quốc trưởng:

“Việt nam chưa có Quốc Hội nên Ngài nghĩ tới cách thu thập ý muốn, sáng kiến của quốc dân qua một hội nghị đại biểu của ba Miền cho dịp này. Đại biểu phải gồm đủ các thành phần đảng phái chánh trị, tôn giáo, xã hội, ….” (**)

blank
Hình ảnh các nhà hoạt động Nam kỳ thập niên 1950s.

Tổ chức Hội Nghị Toàn Quốc

Để thực hiện dự tính về một hình thức Quốc dân Đại hội khi đất nước chưa có Quốc Hội để có thế quốc dân nói chuyện với Pháp, ngày 10 tháng 9 năm 1953, Quốc trưởng ký một Sắc lệnh gòm 8 Điều qui định việc tổ chức một “ Hội nghị đại biểu quốc dân trên cả nước” dưới danh xưng: “Hội Nghị Toàn Quốc”.

Sắc lệnh được Hoàng thân bữu Lộc mang về, cả với lời Hiệu triệu của Quốc trưởng, trong đó có những câu đáng để ý:

(…) Tất cả đồng bào sẽ có quyền lên tiếng trong cuộc hội nghị đó. Giờ đây, tôi thấy kêu gọi và thúc dục những ai từ trước tới nay, vì không muốn ấn định thái độ, nên đã từ chối không chịu tham dự công cuộc chung. Ngày nay, họ không thể viện lẽ gì mà do dự hoặc nghi ngờ được nữa. Sự tham dự của mọi người trong lúc này sẽ chứng tỏ ý chí của toàn thể quốc dân.

Vốn tôn trọng những quyền tự do, căn bản của nền dân chủ, tôi sẽ để các vị đại diện của đồng bào toàn quyền chuyển đạt cho tôi ý chí đó của dân chúng ….

Hởi đồng bào thân mến, nhiệm vụ chứng minh tinh thần của dân tộc với thế giới nay ở trong tay đồng bào. Với đức tính tôn trọng kỷ luật công dân, với sự lựa chọn sáng suốt của đồng bào, tôi chắc đồng bào sẽ chẳng phụ lòng tin tưởng của tôi” (**).

Hoàng thân Bữu Lộc bắt đầu thi hành Sắc lệnh của Quốc trưởng về tổ chức Hội nghị Toàn quốc. Ông đi gặp các đảng phái, nhơn sĩ, đại diện tổ chức nghề nghiệp, tôn giáo, …Thành phần tham dự Hội nghị được tính theo tỷ lệ các Hội đồng dân cử, các tổ chức chánh trị, tôn giáo, kinh tế xã hội, văn hóa, cả đồng bào cao nguyên và hải ngoại, nhằm mục đích làm phấn khởi tinh thần toàn dân đoàn kết và thống nhứt:

Đại diện cấp xã: 50 ghế, tỉnh: 29 ghế, đoàn thể chánh trị: 25 ghế, Cao Đài: 17 ghế, Công giáo: 15 ghế, Hòa Hảo: 15 ghế, Bình Xuyên: 9 ghế, Nghiệp đoàn: 8 ghế, Công nhơn: 6 ghế, Thương mại: 6 ghế, Phật giáo: 5 ghế, Sơn cước: 5 ghế, kỷ nghệ: 4 ghế, Văn hóa: 3 ghế, Báo giới: 3 ghế, Người việt ở Pháp, Xiêm (Thái lan) và Mên (Cam-pu-chia): 3 ghế.

Địa điểm họp Hội Nghị là Dinh Đốc lý, tức Tòa Đô Chánh sau này. Thời gian từ ngày 12 tháng 10 năm 1953 tới ngày 17 tháng 10 năm 1983. Thời hạn kéo dài hơn dự tính. Người tham dự tự túc. Ở xa tới, Ban tổ chức thu xếp chổ ăn ờ tại hai khách sạn Continental và Majestic cùng trên đường catinat vì thuở đó, ở Sài gòn, chưa có nhiều khách sạn. Chi phí do Ông Lê văn Viển, Chủ sòng bạc Đại thế giới và Kim chung, và Ông Phạm Hoè, doanh nhơn, Chủ hàng máy bay Cosara, ứng trước. Sau đó, chánh phủ hoàn trả.

Bắt đầu hợp, Hội nghị bầu Chủ tịch đoàn gồm 6 người, Cụ Trần Trọng Kim làm Chủ tịch, Ban Thư ký gồm 6 người với Ông Trần văn Ân làm Tổng Thư ký và ba Tiểu Ban Nghiên cứu về các Vấn đề Độc lập, Ông Nguyễn Phan Long làm Trưởng Ban, về các Vấn đề Liên kết với Pháp, Ông Trần văn Quế làm Trưởng Ban và về Nhìệm vụ của Phái đoàn Thương thuyết, Ông Phạm Hữu Chương làm Trưởng Ban. Mỗi Tiểu Ban gồm có từ 11 tới 15 người (**).

Diễn tiến Hội nghị

Đến dự lễ khai mạc Hội nghị ngày 12/10/1953 tại Dinh Đốc lý, tức Tòa Đô Chánh sau này, phía chánh phủ có Thủ tướng Nguyễn văn Tâm, Hoàng thân Bữu Lộc… Quan khách ngoại quốc, ngoài Đại diện chánh quyền Pháp, có Đại sứ Mỹ tại Sài gòn, Ông Heath. Trong số đông đảo báo giới việt nam có thêm ký giả người Mỹ am tường vấn đề việt nam là Bernard Fall, người, sau khi Hội nghị kết thúc, đã có nhận xét “ Chánh phủ Sài gòn đã làm được một vìệc đem lại độc lập cho Việt nam chỉ trong có 3 ngày trong lúc đó Hồ Chí Minh đổ xương máu nhân dân suốt hai năm dài mà chưa đạt được”.

Trong suốt ba ngày đầu, Hội nghị chú tâm thảo luận chung quanh vấn đề Độc Lập và Liên Hiệp Pháp. Không khí hội trường vô cùng sôi nổi nhưng nghiêm túc. Tuyệt nhiên không có lớn tiếng để hơn thua nhau.

Hội nghị kết thúc với 3 Kiến nghi được toàn thể Hội nghị biểu biểu chấp thuận:

- Quyết nghị 1 biểu quyết hôm 15/10/1953 “ Việt nam phải là một nước hoàn toàn độc lập, nghĩa là phải đầy đủ chủ quyền đối nội và đối ngoại như bất cứ một quốc gia độc lập nào khác trên thế giới theo công pháp quốc tế”,

- Quyết nghị 2 biểu quyết hôm 16/10/1953 “Nước Việt nam độc lập không gia nhập Liên Hiệp Pháp theo hình thức hiện tại. Sau khi thu hồi tất cả các chủ quyền mà nước Pháp còn giữ lại, sau khi thanh toán xong Viện Phát Hành đông Dưong, tức Ngân Hàng Đông Dương củ, nước Vìệt nam sẽ ký với Pháp những Hiệp ước Liên minh trên lập trường binh đẳng tùy theo nhu cầu của Việt nam và Pháp trong những trường hợp và thời hạn ấn định rỏ ràng…”,

- Quyết nghị 3 biểu quyết sau cùng “Hội nghị quyết định để tùy Đức Quốc trưởng lựa chọn trong số 212 Đại biểu dự Hội Nghị hoặc cả trong số những nhân vật ngoài Hội Nghị Toàn Quốc để thành lập Phái đoàn thương thuyết với Pháp.

Kết quả Hội Nghị Toàn Quốc đã làm cho Quốc trưởng và toàn thể quốc dân hài lòng.

Sở dĩ có Quyết nghị 3 vì khi cần có một Phái đoàn Đại biểu qua Pháp thảo luận để đòi cho được hai điểm then chốt là Độc Lập và Việt nam không gia nhập Liên Hiệp Pháp thì Cụ Trần Trọng Kim từ chối, nại lý do sức khỏe và tuổi tác tuy trước đó cụ tuyên bố là sẳn sàng nhận lảnh bất kỳ nhiệm vụ gì do Hội Nghị giao phó. Sự từ chối của Cụ Kim làm cho mọi người hoang mang. Tiếp theo, Đại diện Cao Đài, Phật gìáo Hòa hảo cũng lần lượt từ chối tham gia Phái đoàn. Trước tình thế đó, Ông Trần văn Ân có ngay sáng kiến là đề Quốc trưởng chọn lựa và đề cử Phái đoàn (***).

Sau Hội Nghị vài tháng, Hoàng thân Bữu Lộc được đề cử làm Thủ tướng thay thế Ông Nguyễn văn Tâm.

Giá trị lịch sử

Hội Nghị Toàn Quốc với 2 Quyết nghị về Việt nam Độc lập và không gia nhập Liên Hiệp Pháp đã làm chấn động chánh trường Pháp. Có thể nói đó là một trái bom nổ phá tan Liên Hiệp Pháp. Và đó cũng chính là Nhiệm vụ lịch sử của Hội Nghị.

Nhưng Pháp vẫn chưa thật lòng muốn giao trả trọn chủ quyền cho Chánh phủ Việt nam trong lúc trên thực tế, ở Việt nam và cả Đông Dương, Pháp chẳng còn gì giử được trong tay nũa, nhứt là uy tín chánh trị.

Việt Minh được cả Bắc kinh và Mạc-tư-khoa giúp đở tận tình, từng bước làm chủ chiến trường, tiến chiếm được nửa nước bằng Hiệp định đình chiền Genève 1954.

Với sự ủng hộ của Huê kỳ, Ông Ngô Đình Diệm được Đức Quốc trưởng Bảo Đại giao trọn trách nhiệm vừa chánh trị vừa quân sự - lần đầu tiên Cựu Hoàng làm việc này với Ông Diệm - để lập Chánh phủ chống cộng.

Những ngày đầu, ông được sự ủng hộ nhiệt tình của các tổ chức chánh trị ở Miền nam. Trong lúc đó, Miền bắc còn đang trong tình trạng thật sự “tán gia bại sản” do hậu quả cuộc “Cải cách Ruộng Đất long trời lở đất” nên nhờ đó mà Miền nam được hưởng an lạc thái bình.

Chỉ ít lâu sau, Ông Ngô Đình Diệm tự suy tôn Tổng thống, rồi từng bước tóm thâu quyền bính về một mối, làm mất thế đoàn kết toàn dân, đưa chánh quyền tới cái thế sau cùng chỉ phải lo dồn hết nỗ lực bảo vệ chế độ là trên hết. Một nguyên nhơn trong những nguyên nhơn cơ bản đã không tránh khỏi dẩn tới ngày 30/04/1975.

Ngày nay, nhìn lại thấy Hội Nghị Toàn Quốc vẫn có giá trị một biến cố lịch sử trọng đại của đất nước và thể hìện quyết tâm của toàn dân đòi cho bằng được “Việt nam phải Độc lập hơàn toàn, thật sự, trọn vẹn, và không đứng trong Liên Hìệp Pháp”.

Nguyễn Văn Trần

Ghi chú:

(*) François Guillaume, Đại việt, Indépendance et Révolution au Việt nam - Echec de la 3e voie (1938 – 1955), Les Indes Savantes, Paris, 2012, tg 534, 356

(**) Nghiêm Kế Tổ, Việt nam Máu Lửa, Xuân Thu, Huê kỳ, 1989, Chương về Chánh phủ Nguyễn văn Tâm

(***) Trần văn Ân, Hồi ký (chưa xuất bản)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.