Hôm nay,  

Tình Yêu Thương Trong Hành Động (Love in Action)

02/04/201400:00:00(Xem: 3128)

Đoàn Thanh Liêm
(Hồi tưởng về một ngày sinh họat với giới trẻ ở Hòa Lan năm 1971)

Đầu năm 1971, tôi được mời qua tham dự một ngày “Trò chuyện với Giới Trẻ” tại thành phố Utrecht ở Hòa Lan. Đây là một thứ Đại Hội của giới trẻ nhân dịp đầu năm với cái tên thật ngộ nghĩnh: “Palaver” theo tiếng Anh, còn tiếng Pháp thì viết là “Palabre” mà phiên âm ra Việt ngữ là “Ba láp”, tức là nói thả giàn, lung tung ( Có người còn gọi là “ba láp, ba xàm” hàm nghĩa là không nghiêm chỉnh). Nhưng mà chủ đề của Palaver 1971 thì lại rất là nghiêm túc, đó là: “Love in Action” (Tình Yêu Thương trong Hành Động).

Dịp đó, từ đầu tháng 12 năm 1970, tôi qua tham dự sinh họat với Nhóm Thành lập INODEP (Institut oecumenique au service du developpement des peuples = Viện Đại Kết Phát triển Các Dân Tộc) ở Paris. Nhân tiện Ban Tổ chức ở Hòa Lan cũng mời tôi đến tham dự luôn, sau khi công việc ở Pháp đã hòan tất. Từ Paris, tôi đi xe lửa qua thủ đô Bruxelles nước Belgique để thăm gia đình anh chị Nguyễn Văn Tánh/Lê Thị Bạch Nhựt, rồi từ đó lại đi tiếp qua Hòa Lan. Xe lửa xuyên Âu châu hồi đó đã khá là tiện nghi, thuận tiện.

Lúc đó ở Việt nam chiến tranh còn đang diễn ra tàn khốc, khói lửa tang thương khắp nơi mù mịt. Mà ở các nước Âu châu, thì cuộc sống thật là thanh bình êm ả, thịnh vượng sung túc.

Ban Tổ chức là do Liên Hiệp các Hội Thánh Kinh (Union of Bible Societies) đứng ra đảm trách việc quy tụ giới trẻ để cùng nhau trao đổi về việc sống theo tinh thần của Tin Mừng trong thời đại hiện nay. Người đại diện cho tôi biết: “ Chúng tôi đã phân phát ra cả hàng triệu cuốn sách Thánh Kinh cho công chúng; nhưng mà chẳng thấy có được mấy người chịu khó đọc và học hỏi về Thánh Kinh cả. Vì thế cho nên chúng tôi từ mấy năm nay, mới tổ chức các buổi Palaver như thế này, để tạo cơ hội cho thế hệ trẻ trao đổi, chuyện trò thỏai mái về những đề tài cụ thể, thiết thực liên quan đến cuộc sống thường ngày của họ (everyday life). Chúng tôi không thể áp dụng cái lối giảng đạo cứng nhắc như ngày trước, mà bây giờ bị coi là nhàm chán lỗi thời mất rồi…” Một vị khác lại nói thêm: “Chúng tôi mời các vị khách quốc tế đã từng dấn thân phục vụ như ông trong hòan cảnh khó khăn thiếu thốn ngặt nghèo ở các nước trong thế giới thứ ba, hay tại các nơi có chiến tranh như ở Việt nam của ông, để mong các “guestspeaker” này, mỗi người một vẻ, gửi cái chứng từ của việc quý vị đang làm tại xứ sở của mình cũng chính là “thể hiện cái tình yêu thương đồng lọai bằng những hành động cụ thể, trong môi trường riêng biệt của mỗi vị. Tuổi trẻ của chúng tôi ở Hòa Lan hiện đang sống trong cảnh sung túc, an bình thịnh vượng, nên nhiều khi đã sao lãng không chú ý gì đến người đồng lọai đang đau khổ ở nhiều nơi vì đói rét, vì bất công áp bức, hay vì chiến tranh tàn sát với lòng hận thù cuồng nhiệt … Xin quý vị cứ thỏai mái nói lên cái kinh nghiệm và cảm xúc của mình, hầu giúp cho con em chúng tôi có được sự thông cảm và liên đới với nhân dân trong xứ sở của quý vị…”

Địa điểm tổ chức là khu vực trình diễn tranh tài thể thao gồm nhiều tòa nhà rất đồ sộ rộng lớn, có sức chứa đến cả mấy vạn người. Thời tiết đang ở giữa mùa đông, nên nhiệt độ ngòai trời rất thấp, cỡ trên dưới zero độ bách phân. Thành ra trong các tòa nhà đều phải có hệ thống sưởi ấm cho đủ tiện nghi. Buổi sáng được dành cho việc thăm viếng các gian hàng triển lãm tranh ảnh, vừa có tính cách mỹ thuật, vừa có tính thời sự, trưng bày đồ thủ công mỹ nghệ từ các nơi xa của các tổ chức nhân đạo từ thiện gửi tới, lại có một số diễn đàn dành cho các khách từ ngọai quốc đến trao đổi theo yêu cầu của công chúng. Năm đó, đề tài gây được sự chú ý nhất là “ Vấn đề tranh đấu bất bạo động theo tinh thần của Thánh Gandhi và nhất là của Mục sư Luther King là người vừa mới bị ám sát tại Mỹ năm 1968”.Dĩ nhiên là cũng có nhiều quày bán đồ ăn, thức uống cho số khách tham dự rất là đông đảo, đặc biệt là lớp trẻ từ 14-15 đến 20-25 tuổi. Tính ra có đến trên vài chục ngàn người tham dự Ngày Đại Hội này.

Mục chính yếu của Palaver gồm hai phần được bắt đầu vào lúc 1.00 PM tại đại sảnh đường và kéo dài đến 5.00 PM. Hai phần đó là:

1/ Cuộc thi hát trong chương trình “Relipop Song Festival”, tức là Religious Popular Song (Ca nhạc Tôn giáo Đại chúng).

2/ Diễn thuyết của 7 khách mời quốc tế (International Guestspeakers).

Cuộc thi hát chung kết đã rất sôi động hào hứng do sự hợp tác của nhiều tổ chức văn hóa tôn giáo của tòan thể các nước Tây Âu, trong đó có Đài truyền Hình Âu châu (Euro-Vision). Do vậy mà giới truyền thông báo chí tới theo dõi làm phóng sự rất đông. Ban giám khảo gồm 5 vị đều là các nhạc sĩ nổi danh từ nhiều nước Âu châu. Và số thí sinh trình diễn cũng khá đông và đều là các ca sĩ nổi tiếng. Đó là các ca sĩ đã lọt qua được vòng sơ khảo tại mỗi quốc gia, nay thì họ đại diện cho xứ sở của mình để tranh giải chung kết của tòan Âu châu. Đáng chú ý nữa là cả một ban nhạc hùng hậu của Salvation Army từ London cũng đến, để tiếp sức khơi động hào khí nhiệt thành của tòan thể lớp khán giả, mà hầu hết đều còn rất trẻ ở vào tuổi teen age.

Những bài hát trình diễn tuy là phản ảnh tâm tình đạo đức tôn giáo, nhưng đó không phải là thứ “Thánh ca phụng vụ” (Liturgical Song) như các ca đòan vẫn hát ở nhà thờ trong các thánh lễ. Và bài ca này lại có tính cách phổ biến rộng rãi trong quần chúng, chứ không phải hòan tòan có tính cách nghệ thuật trau chuốt. Và kết cục, ca sĩ người Hòa Lan năm ấy đã được Ban Giám Khảo đồng thuận trao giải nhất cho bài ca cô trình diễn.

Về phần các diễn giả quốc tế, thì năm ấy có tất cả 7 vị từ Á châu, Phi châu và châu Mỹ La tinh. Mỗi người chỉ được có 7 phút để trình bày, kể cả thời gian để dịch ra tiếng Hòa Lan nữa. Mỗi diễn giả được mời phát biểu xen lẫn vào giữa các bài hát của các ca sĩ đại diện mỗi nước Âu châu. Nhờ vậy mà các bài diễn thuyết không bị dồn cục vào cùng một lúc, khiến cho cử tọa dễ buồn chán. Tôi thấy mỗi diễn giả đều trình bày ngắn gọn và gây được sự chú ý theo dõi của mọi người, xuyên qua câu chuyện dí dỏm, độc đáo và đặc thù của hòan cảnh thực tế sinh động trong môi trường sinh họat tại địa phương của từng người diễn giả một. Cụ thể là cử tọa đã luôn vỗ tay tán thưởng nồng nhiệt sau mỗi lần trình bày của các diễn giả.

Riêng tôi là người từ Việt nam đến, thì được cử tọa chú ý hơn là vì lý do tin tức và hình ảnh về cuộc chiến tranh được phổ biến hàng ngày trên báo chí, radio, tivi. Tôi nói đại ý là: “ Người Việt nam chúng tôi như đang sống trong địa ngục chiến tranh, mà ở Hòa Lan thanh bình này, thì các bạn như đang sống ở thiên đàng vậy. Nhưng sau mấy ngày nữa, thì tôi cũng lại trở về với gia đình, với bà con bạn hữu của tôi ở Việt nam, dù nơi đó đang quả thật là một thứ “địa ngục trần gian”. Tôi phải trở về để sống chết với gia đình và dân tộc thân yêu của tôi. Đơn giản vậy thôi. Cụ thể, thì tôi vẫn tiếp tục tham gia vào công việc từ thiện nhân đạo để chăm sóc cho các nạn nhân chiến cuộc (war victims), ngay trong vùng ven biên thành phố tại các quận 6,7 và 8 Saigon, nơi mà cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 đã tàn phá hàng mấy chục ngàn căn nhà, sát hại bao nhiêu nạn nhân thường dân vô tội, như các bạn đã thấy rất rõ trên màn ảnh tivi. Điều mong ước sâu xa nhất của người dân Việt nam chúng tôi là: “Làm sao chấm dứt được cuộc chiến tranh tàn bạo này, để cho chúng tôi cũng được sống an lành như các bạn trên xứ sở Hòa Lan thanh bình này…”

Sau đó, thì chị Elisabeth trong ban Tổ chức có trao đổi tâm sự với tôi, đại khái chị nói như sau: “Chúng tôi nhận được cái tín hiệu(message) của anh gửi đến cử tọa rất rõ ràng, chân thực. Đó là một đóng góp rất quý báu, giúp cho giới trẻ Hòa lan chúng tôi hiểu biết và thông cảm hơn với nỗi khổ đau của người dân Việt nam trong cuộc chiến tranh tàn khốc hiện nay. Chúng tôi cũng mong ước có thể đóng góp phần nào trong việc dập tắt được cái ngọn lửa chiến tranh đó, như lời kêu gọi rất ư là thống thiết, chân tình của anh…”

Cũng trong dịp ban Tổ chức khỏan đãi các diễn giả chúng tôi tại bữa tiệc kết thúc Palaver, tôi còn có cơ hội trao đổi chi tiết và thân mật hơn với các bạn quốc tế khác, kể cả người Hòa Lan là chủ nhà. Nhờ vậy mà thắt chặt hơn nữa cái mối tình liên đới keo sơn giữa những anh chị em cùng nhằm chung về một hướng, đó là phục vụ cụ thể cho những người đồng lọai kém may mắn hơn trong môi trường xã hội địa phương của mình.

Nói chung, thì tôi học hỏi được rất nhiều qua những cuộc gặp gỡ trao đổi thân tình như thế này. Nó còn giúp cho tôi thêm nghị lực để tiếp tục công việc cụ thể, tích cực là:“Đem yêu thương vào nơi óan thù” như trong kinh nguyện Hòa bình của Thánh Phanxicô, mà bây giờ người công giáo ở Thái Hà đang hát mỗi ngày./

California, Tháng Năm 2009

Đoàn Thanh Liêm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một quan điểm lạc quan đang dấy lên trong hàng ngũ Lãnh đạo đảng CSVN khi bước vào năm 2024, nhưng thực tế tiềm ẩn những khó khăn chưa lường trước được...
Nếu Donald Trump giành lại được Nhà Trắng vào tháng 11, năm nay có thể đánh dấu một bước ngoặt đối với quyền lực của Mỹ. Cuối cùng, nỗi sợ hãi về tình trạng suy tàn đã khiến cho người Mỹ bận tâm kể từ thời thuộc địa sẽ được biện minh. Hầu hết người Mỹ tin rằng, Hoa Kỳ trong tình trạng suy tàn, Donald Trump tuyên bố rằng ông có thể “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Nhưng tiền đề của Trump đơn giản là sai, và các biện pháp trị liệu được ông đề xuất đặt ra mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ.
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.