Hôm nay,  

Thành Quả Và Tương Lai Quỹ VEF

21/03/201400:00:00(Xem: 4025)
Vietnam Education Foundation (VEF) là quỹ giáo dục được khởi xướng năm 2003 qua một đạo luật của Quốc hội Mỹ với mục đích cấp học bổng cho sinh viên từ Việt Nam sang Hoa Kỳ theo học cấp thạc sĩ, tiến sĩ và đưa các giáo sư, học giả Việt và Mỹ đến nghiên cứu, giảng dạy tại các đại học của hai quốc gia.

Sau hơn 10 năm hoạt động, đến nay đã có trên 450 suất học bổng VEF cấp cho sinh viên Việt Nam. Ngân sách VEF hiện nay là 5 triệu đôla để tài trợ cho 40 sinh viên mỗi năm. Quỹ sẽ chấm dứt hoạt động vào năm 2018 nếu không được quốc hội gia hạn.

Mới đây, một phái đoàn VEF đã đến California để gặp gỡ và trình bày với cộng đồng người Mỹ gốc Việt về quá trình hoạt động và giải đáp những thắc mắc về quỹ.

Buổi gặp gỡ đầu diễn ra ngày 8/3 tại Westminster ở Quận Cam, Nam California và buổi thứ hai ở San Jose, miền Bắc California hôm 9/3.

Tiến sĩ Lynne McNamara, giám đốc điều hành VEF, nói về sự hình thành của quỹ và phương cách tuyển chọn sinh viên. Theo bà, đó là một quá trình minh bạch, công bằng để chọn những sinh viên xuất sắc nhất.

Các ứng viên phải có bằng cử nhân hay thạc sĩ, giỏi anh ngữ (điểm TOEFL cao), được sự giới thiệu của ba người và sau đó phải qua một cuộc phỏng vấn để trình bày về nhân thân, quá trình học tập, việc làm và mơ ước cũng như dự tính đóng góp tương lai cho nước Việt Nam sau khi hoàn tất học trình tại Mỹ.

Theo lời bà Lynne, hiện nay nhiều cơ sở giáo dục Mỹ đã biết đến trình độ giỏi của du sinh Việt là qua sinh viên VEF có mặt tại nhiều đại học danh tiếng của Hoa Kỳ.

Sau phần trình bày của bà giám đốc, ba thành viên người Mỹ gốc Việt trong hội đồng quản trị VEF là ông David Dương, bà Lan Anh Phúc Nguyễn và bà Quyên Ngọc Vương cũng đã nói về quỹ học bổng.

Giải thích của các thành viên VEF nhằm làm sáng tỏ nghi ngờ cho rằng các suất học bổng thường dành cho con cháu cán bộ hay những ai quen biết với giới chức quyền, còn dân nghèo không có cơ hội.

Bà Quyên nói về tính minh bạch và mở trong việc VEF tuyển chọn. Bà kể lại một chuyến đi Việt Nam quan sát cuộc phỏng vấn của đại diện VEF, là những giáo sư hay chủ nhiệm khoa từ đại học Mỹ, với các ứng viên trong tiến trình tuyển chọn để trao học bổng. Mỗi sinh viên có 45 phút trả lời trực tiếp những câu hỏi do ban tuyển chọn đưa ra.

blank
Đại diện quỹ học bổng VEF: bà Quyên Ngọc Vương, bên trái, ông David Dương, bà Lan Anh Phúc Nguyễn và tiến sĩ Lynne McNamara. (ảnh Bùi Văn Phú)

Trả lời một câu hỏi của người tham dự, bà Lynne nói những năm đầu của chương trình có đến 1200 sinh viên cho biết họ có ý định xin học bổng VEF, nhưng sau khi xem các điều kiện, con số giảm xuống chừng 400 thực sự nộp đơn. Qua tiến trình xét đơn, khoảng 100 được mời tham dự phỏng vấn để cuối cùng VEF chọn ra 40 sinh viên.

Tiến sĩ Lynne nói mọi sinh viên đều có cơ hội đồng đều vì việc nộp đơn học bổng VEF chỉ được thực hiện trên mạng. Ba năm gần đây các ứng viên còn phải qua kỳ thi GRE – bài thi trắc nghiệm trình độ của sinh viên Mỹ khi xin học ban thạc sĩ tại những đại học Hoa Kỳ – vì thế số sinh viên nộp đơn giảm xuống còn khoảng 300. Như thế cho thấy những ứng viên VEF phải là sinh viên thực sự giỏi.

Một khách dự nêu vấn đề sinh viên sau khi tốt nghiệp Mỹ trở về không được tin tưởng, trọng dụng chỉ vì họ được học bổng VEF hay Fulbright ở Mỹ. Theo lời khách, muốn có những ảnh hưởng lâu dài, các đại học Mỹ có quan hệ với đại học Việt Nam cần định chế hoá các quan hệ để sinh viên tốt nghiệp trở về có cơ hội mang kiến thức ra phục vụ.

Vị khách nói thêm đó có lẽ là nguyên do khiến một số sinh viên, mà cá nhân cô có biết, sau khi hoàn tất chương trình với học bổng VEF đã không ở lại Việt Nam làm việc.

Tiến sĩ Lynne cho biết một sinh viên sau khi hoàn tất chương trình học tại Hoa Kỳ, phải trở về nước làm việc hai năm. Rất là khó nếu muốn ở lại vì chính phủ Mỹ không cho phép. Sau hai năm, họ có thể sống và làm việc ở bất cứ nơi nào.

Còn chuyện ganh tị, theo bà có lẽ là giữa người có bằng tiến sĩ từ Mỹ với những người trong nước không có bằng tiến sĩ. Bà cũng thừa nhận dự án cho một đại học Mỹ (American University) ở Việt Nam vẫn chưa đi đến đâu.

Trả lời câu hỏi về kết quả cụ thể cựu sinh viên VEF đã đem lại cho Việt Nam, bà Lynne nói vì mất đến 7 năm để hoàn tất bằng tiến sĩ, các sinh viên về nước làm việc chưa được lâu nên kết quả còn ít. Tuy nhiên đã có những ứng dụng tại Việt Nam của sinh viên VEF trong việc trồng cà chua, trồng nho từ kiến thức học được ở Mỹ, cụ thể là từ Đại học U.C. Davis hay những nghiên cứu về vùng Delta ở Louisiana có thể áp dụng cho vùng Mekong ở Việt Nam.

Trong buổi nói chuyện đã có sự hiện diện của hai sinh viên VEF đang theo học Đại học U.C. Berkeley là Nguyễn Trà Mi, người gốc Nha Trang, và Nguyễn Đức Giang gốc Bắc Ninh.

Nữ sinh viên Trà Mi học tiến sĩ khoa xây dựng và môi trường, nam sinh viên Đức Giang học tiến sĩ vật lý. Đại học Berkeley từ năm 2004 đã đón nhiều sinh viên VEF.

Bạn Giang trình bày dự án xuất bản một tạp chí khoa học trên mạng bằng song ngữ Việt-Anh, có tên Vietnam Journal of Science, với mục đích phổ biến thông tin khoa học của người Việt, ứng dụng nghiên cứu hấp dẫn, những bài viết khoa học đã được đồng nghiệp phê chuẩn và cũng để giới thiệu với thế giới những nhà khoa học của Việt Nam. Số đầu tiên dự định ra mắt vào tháng 4 này.

blank
Sinh viên Nguyễn Đức Giang và công trình nghiên cứu cùng với các bạn đồng môn. (ảnh Bùi Văn Phú)

Qua con đường của tạp chí này, nhóm chủ trương sẽ bước xa hơn bằng cách chọn ra những bài giá trị để xuất bản một tạp chí khoa học có chuẩn mực cao [ISI scientific journal] bằng Anh ngữ để góp phần với các nghiên cứu khoa học quốc tế.

Nhìn vào danh sách mấy trăm sinh viên VEF đã tốt nghiệp trong hơn 10 năm qua với hàng trăm bài nghiên cứu được phổ biến, như thế việc có một tạp chí để những nhà khoa học Việt công bố công trình nghiên cứu là cần thiết vì nó sẽ giúp đưa trình độ khoa học Việt Nam lên mức cao hơn.

Từ ngày khởi xướng, quỹ VEF nhắm đến các lãnh vực học tập và nghiên cứu thuộc về khoa học tự nhiên, khoa học vật lý, môi trường, công nghệ và y tế công cộng.

Ngoài việc tài trợ cho sinh viên đến Mỹ học thạc sĩ và tiến sĩ, VEF còn có chương trình dành cho những học giả Việt Nam sang Hoa Kỳ nghiên cứu ngắn hạn và đưa giáo sư Mỹ sang Việt Nam giảng dạy tại các đại học.

Ban tổ chức VEF gửi lời nhắn đến cộng đồng hãy khuyến khích bạn bè, con em hay người quen có quốc tịch Việt Nam nên nộp đơn xin học bổng này. Hạn chót nộp đơn cho năm nay là ngày 10/4/14.

Nhiều đại học danh tiếng như Cornell, Rutgers, University of Utah, Michigan State U., Washington State U., University of Texas in Houston, U.C. Berkeley, v.v.. đã có thư ca ngợi thành quả học tập của các sinh viên VEF và lên tiếng ủng hộ học bổng này.

Trong quan hệ giúp đỡ giáo dục Việt Nam để phát triển, VEF là một mảng của chương trình này. Theo thống kê, hiện có khoảng 17 nghìn sinh viên từ Việt Nam, đứng thứ 8 trong số sinh viên nước ngoài tại các đại học Mỹ.

Sau buổi gặp gỡ, người viết bài hỏi ông David Dương về tương lai VEF và được biết hội đồng quản trị cũng như ban điều hành quỹ mong tiếp tục có sự hỗ trợ từ quốc hội Mỹ, từ phía chính phủ Việt Nam, từ những cá nhân, công ty đang đầu tư ở Việt Nam và từ cộng đồng người Mỹ gốc Việt để mở rộng quan hệ giữa hai quốc gia.

Ông nói quỹ càng mở rộng thì càng giúp được nhiều hơn cho bà con ở quê nhà có cơ hội học tập tại Hoa Kỳ, nâng cao trình độ giáo dục, giúp phát triển công nghệ, kinh tế và sẽ đem đến thay đổi nhiều mặt cho đất nước.

© 2014 Buivanphu.wordpress.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.