Sân trường ngập nắng vàng. Học sinh tứ phía đang vui vẻ về trường, bóng họ lung linh cùng bóng nắng và tiếng chuyện trò líu lo hòa cùng tiếng gió như âm thanh bản giao hưởng mà không một nhạc sỹ tài danh nào có thể soạn hay hơn. Tôi đứng yên ngoài cổng trường, dõi mắt theo một tà áo nâu đang quyện vào muôn sắc mầu y phục của học sinh ngôi trường cộng đồng đó.
Hình như sáng nay nhiều gió, nhưng ấm và hiền. Gió cuốn tà áo nâu phất phơ như một cánh bướm đặc thù giữa vườn hoa lạ. Mà có lẽ lạ thật. Ít nhất là lạ với môi trường xung quanh. Người học sinh mới, đầu không có tóc, áo nâu vạt dài, từ cổ xuống chân, hai tay ôm tập vở trước ngực, bước thong dong như kẻ nhàn du. Có đôi lúc, đám học sinh đi nhanh hơn nên đã vô tình bỏ tà áo nâu lại phía sau. Có lẽ gió chỉ chờ thế, để tới đùa giỡn, tung cả vạt trước, vạt sau, và nắng tô ngay những nét vàng óng ả trên tà áo nâu đó…..
Sư qua chốn bụi gieo duyên
Thảnh thơi từng bước chân thiền nở hoa
Nghiêng vai nhẹ gánh ta-bà
Nắng vờn theo gió trên tà áo nâu
Ôi, đẹp làm sao, hình ảnh người tu vào đời, hòa đồng chỉ để thăng hoa cho đời và vạn hữu đẹp hơn lên.
Tôi vẫn đứng yên ngoài cổng trường khi tiếng chuông báo hiệu giờ học vang lên. Tà áo nâu đã khuất sau lối rẽ vào lớp. Và không còn ai ngoài hành lang. Chỉ còn nắng và gió. Vậy mà tôi vẫn đứng, dù không có gì để chờ, để đợi nữa.
Khi quay bước, trở về chiếc xe đậu ở góc phố, lòng tôi bỗng dấy lên nỗi bùi ngùi khôn tả, như vừa tiễn một người thân đi xa trong cuộc chia ly không hẹn ngày tái ngộ. Lạ chưa! Chỉ là đưa người một đoạn đường đến trường thôi, có tạm biệt, vĩnh biệt chi đâu! Vậy mà cái cảm giác bùi ngùi từ đâu ập tới vậy?
Hôm đó tôi ngỡ chỉ là một chủng tử tình cờ nào chợt trôi ngang dòng sông cảm thọ, đúng vào sát na nắng và gió đùa giỡn trên tà áo nâu, đã tạo nên hình ảnh tự tại tuyệt vời của một người tu thong dong vào đời. Chỉ thế thôi. Nhưng cái hình ảnh khói sương, lãng đãng giữa mộng và thực đó đã chập chờn ẩn hiện trong tôi suốt hơn hai năm qua, ở những giây phút bất ngờ nhất, không hề gõ cửa mà cứ an nhiên bước vào. Chẳng hạn như, đang thiền hành quanh khuôn viên nơi cư ngụ, chợt cảm thấy như tà áo đó phất phơ phía trước. Nhưng làm gì có ai tản bộ lúc 6 giờ sáng khi mặt trời chưa lên, ngoài kẻ lẩn thẩn muốn kiểm chứng “Nguyệt lạc bất hư không” như tôi! Hoặc có thời công phu khuya, tiếng mõ bỗng lạc nhịp khi tà áo đó vờn quanh câu chú: “Án a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạc xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bàn ni phấn. Hổ hồng đô lô ung phấn, ta bà ha.”
Cứ thế, thỉnh thoảng tà áo nâu ấy lại thấp thoáng cùng tôi trong những sinh hoạt đời thường. Thoạt đầu tôi còn cố tìm hiểu tại sao? Có gạch nối gì giữa sự chợt ẩn, chợt hiện đó không? Nhưng lâu dần, không tự giải thích được, không tìm ra tương quan nào của sự việc, tôi đã chấp nhận hình ảnh đó như tri kỷ, một tri kỷ không hề phiền lụy chi nhau, không hề đòi hỏi cũng chẳng ước hẹn gì, chỉ chợt đến chợt đi; đến thì mang niềm vui, đi thì để lại ấm áp. Khi chấp nhận như thế, tôi thấy tôi may mắn hơn thi sỹ Trần Tử Ngang, tác giả bốn câu thơ bất hủ:
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất tri lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi lệ hạ.
Câu thơ này nhiều người đã dịch sang nghĩa nôm, nhưng tôi cảm nhận dễ dàng khi đọc lời dịch của nhà văn Vĩnh Hảo vì sát tình, sát ý nhất:
Ngoảnh trước, người xưa không thấy
Ngoái sau, người mới chưa sinh
Nghiệm lẽ mang mang trời đất
Bất chợt lệ sa một mình.
Tôi từng có tri kỷ, nhưng 26 năm qua, từ ngày cha tôi mất, tôi đã hiểu được thật rõ vì sao tiếng đàn Bá Nha có thể làm rúng động núi rừng, đã không cất lên nữa, sau khi Tử Kỳ trở về cát bụi! Thiên hạ mang mang mà chỉ Tử Kỳ nghe thấu tiếng đàn Bá Nha nên khi người không còn nữa thì đàn kia cũng chỉ là củi mục.
Một người là quan Thượng Đại Phu nước Tấn, một người là tiều phu nghèo khổ chốn rừng sâu mà trong sát na tình cờ dừng chân giữa trời đất bao la, tiếng đàn ai oán cất lên bỗng bật đứt giây thương! Bá Nha biết ngay có ai đó đang nghe và cảm nhận tột cùng từng cung bực, mới khiến sức mạnh của tấm lòng ấy bật khóc cùng giây tơ. Quả thật, sau khi Bá Nha lên tiếng hỏi, Tử Kỳ bước ra khỏi lùm cây và tạ lỗi đã nghe lén khúc đàn “Khổng Vọng Vi”, diễn tả nỗi ngậm ngùi của Đức Khổng Tử khóc thầy Nhan Hồi. Bá Nha cực kỳ kinh ngạc về sự am tường và nhạy cảm của người thanh niên đốn củi. Từ nguồn giao cảm hiếm quý đó, họ đã kết nghĩa anh em, hẹn năm sau sẽ hội ngộ chốn này. Nhưng ngày Bá Nha trở lại thì Tử Kỳ chỉ còn là một nấm mộ xanh. Bá Nha khóc bạn rồi đập vỡ cây đàn vì biết rằng trên đời này, còn tìm đâu người hiểu mình nữa!
Tình tri kỷ của người xưa đẹp như huyền thoại, dễ gì còn thấy lại những hạt châu ngọc ấy trong chốn bụi hồng!
26 năm qua, dẫu không tuyệt vọng như Bá Nha, tôi cũng chưa từng mang tâm đi tìm tri kỷ, dù mơ hồ biết nỗi trống vắng đó nơi góc khuất nội tâm mình. Chỉ một câu thư pháp viết thảo trên tường một ngôi chùa ở ngoại ô cũng đủ cho tôi phải tự xác nhận điều mình cố phủ nhận:
Người về bỏ dở chung trà nguội
Mới biết tri âm chẳng dễ là!
Vậy mà điều không tìm, không kiếm, đã bất ngờ tới. Hình ảnh tà áo nâu nhẹ như mây đã lặng thầm bước vào góc khuất nội tâm tôi lúc nào không hay, bước vào để chia sẻ như một tri kỷ.
Ai có thể hiểu được những điều mơ hồ giữa mộng và thực này?
Mà có cần thiết phải hiểu không, khi chính ta cũng không biết đâu là thực, đâu là mộng! Cái nắm bắt được trong tay hôm nay, mai mất đi không lời từ giã, có là mộng? Cái không hình không tướng nhưng thường hằng bất biến, có là thực?
Không biết thuở xưa, có khi nào Bá Nha gặp lại Tử Kỳ, qua một chuyển hóa nào khác, dù cây đàn đã đập vỡ, không còn một âm thanh nào khởi lên để có người đàn, người nghe?
Và có lẽ, cũng không ai dám khẳng định là mộng hay thực, khi sứ thần nước Ngụy từ biên giới Ấn Độ trở về, giữa đường gặp Tổ Đạt Ma quảy một chiếc dép cỏ trên vai, đi nhẹ như lướt trên mặt đất. Tổ đã viên tịch, được mai táng trên núi Hùng Nhĩ, vậy ai quảy dép về Thiên Trúc mà lúc khai quật ngôi mộ để kiểm chứng thì trong quan tài chỉ còn một chiếc!
Phải chăng khi những mất mát đau thương đời này được nhìn một cách dũng cảm, thì nó sẽ trở thành sự tiếp nối vĩnh hằng.
Trong mênh mang vạn hữu, ai biết phút giây nào một ngọn gió tiền thân chợt thoảng, và ân cần phảng phất làn hương năm cũ.
Hạnh Chi
(Tào-Khê tịnh thất, thượng tuần, Giáp Ngọ niên)
Hình như sáng nay nhiều gió, nhưng ấm và hiền. Gió cuốn tà áo nâu phất phơ như một cánh bướm đặc thù giữa vườn hoa lạ. Mà có lẽ lạ thật. Ít nhất là lạ với môi trường xung quanh. Người học sinh mới, đầu không có tóc, áo nâu vạt dài, từ cổ xuống chân, hai tay ôm tập vở trước ngực, bước thong dong như kẻ nhàn du. Có đôi lúc, đám học sinh đi nhanh hơn nên đã vô tình bỏ tà áo nâu lại phía sau. Có lẽ gió chỉ chờ thế, để tới đùa giỡn, tung cả vạt trước, vạt sau, và nắng tô ngay những nét vàng óng ả trên tà áo nâu đó…..
Sư qua chốn bụi gieo duyên
Thảnh thơi từng bước chân thiền nở hoa
Nghiêng vai nhẹ gánh ta-bà
Nắng vờn theo gió trên tà áo nâu
Ôi, đẹp làm sao, hình ảnh người tu vào đời, hòa đồng chỉ để thăng hoa cho đời và vạn hữu đẹp hơn lên.
Tôi vẫn đứng yên ngoài cổng trường khi tiếng chuông báo hiệu giờ học vang lên. Tà áo nâu đã khuất sau lối rẽ vào lớp. Và không còn ai ngoài hành lang. Chỉ còn nắng và gió. Vậy mà tôi vẫn đứng, dù không có gì để chờ, để đợi nữa.
Khi quay bước, trở về chiếc xe đậu ở góc phố, lòng tôi bỗng dấy lên nỗi bùi ngùi khôn tả, như vừa tiễn một người thân đi xa trong cuộc chia ly không hẹn ngày tái ngộ. Lạ chưa! Chỉ là đưa người một đoạn đường đến trường thôi, có tạm biệt, vĩnh biệt chi đâu! Vậy mà cái cảm giác bùi ngùi từ đâu ập tới vậy?
Hôm đó tôi ngỡ chỉ là một chủng tử tình cờ nào chợt trôi ngang dòng sông cảm thọ, đúng vào sát na nắng và gió đùa giỡn trên tà áo nâu, đã tạo nên hình ảnh tự tại tuyệt vời của một người tu thong dong vào đời. Chỉ thế thôi. Nhưng cái hình ảnh khói sương, lãng đãng giữa mộng và thực đó đã chập chờn ẩn hiện trong tôi suốt hơn hai năm qua, ở những giây phút bất ngờ nhất, không hề gõ cửa mà cứ an nhiên bước vào. Chẳng hạn như, đang thiền hành quanh khuôn viên nơi cư ngụ, chợt cảm thấy như tà áo đó phất phơ phía trước. Nhưng làm gì có ai tản bộ lúc 6 giờ sáng khi mặt trời chưa lên, ngoài kẻ lẩn thẩn muốn kiểm chứng “Nguyệt lạc bất hư không” như tôi! Hoặc có thời công phu khuya, tiếng mõ bỗng lạc nhịp khi tà áo đó vờn quanh câu chú: “Án a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạc xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bàn ni phấn. Hổ hồng đô lô ung phấn, ta bà ha.”
Cứ thế, thỉnh thoảng tà áo nâu ấy lại thấp thoáng cùng tôi trong những sinh hoạt đời thường. Thoạt đầu tôi còn cố tìm hiểu tại sao? Có gạch nối gì giữa sự chợt ẩn, chợt hiện đó không? Nhưng lâu dần, không tự giải thích được, không tìm ra tương quan nào của sự việc, tôi đã chấp nhận hình ảnh đó như tri kỷ, một tri kỷ không hề phiền lụy chi nhau, không hề đòi hỏi cũng chẳng ước hẹn gì, chỉ chợt đến chợt đi; đến thì mang niềm vui, đi thì để lại ấm áp. Khi chấp nhận như thế, tôi thấy tôi may mắn hơn thi sỹ Trần Tử Ngang, tác giả bốn câu thơ bất hủ:
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất tri lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi lệ hạ.
Câu thơ này nhiều người đã dịch sang nghĩa nôm, nhưng tôi cảm nhận dễ dàng khi đọc lời dịch của nhà văn Vĩnh Hảo vì sát tình, sát ý nhất:
Ngoảnh trước, người xưa không thấy
Ngoái sau, người mới chưa sinh
Nghiệm lẽ mang mang trời đất
Bất chợt lệ sa một mình.
Tôi từng có tri kỷ, nhưng 26 năm qua, từ ngày cha tôi mất, tôi đã hiểu được thật rõ vì sao tiếng đàn Bá Nha có thể làm rúng động núi rừng, đã không cất lên nữa, sau khi Tử Kỳ trở về cát bụi! Thiên hạ mang mang mà chỉ Tử Kỳ nghe thấu tiếng đàn Bá Nha nên khi người không còn nữa thì đàn kia cũng chỉ là củi mục.
Một người là quan Thượng Đại Phu nước Tấn, một người là tiều phu nghèo khổ chốn rừng sâu mà trong sát na tình cờ dừng chân giữa trời đất bao la, tiếng đàn ai oán cất lên bỗng bật đứt giây thương! Bá Nha biết ngay có ai đó đang nghe và cảm nhận tột cùng từng cung bực, mới khiến sức mạnh của tấm lòng ấy bật khóc cùng giây tơ. Quả thật, sau khi Bá Nha lên tiếng hỏi, Tử Kỳ bước ra khỏi lùm cây và tạ lỗi đã nghe lén khúc đàn “Khổng Vọng Vi”, diễn tả nỗi ngậm ngùi của Đức Khổng Tử khóc thầy Nhan Hồi. Bá Nha cực kỳ kinh ngạc về sự am tường và nhạy cảm của người thanh niên đốn củi. Từ nguồn giao cảm hiếm quý đó, họ đã kết nghĩa anh em, hẹn năm sau sẽ hội ngộ chốn này. Nhưng ngày Bá Nha trở lại thì Tử Kỳ chỉ còn là một nấm mộ xanh. Bá Nha khóc bạn rồi đập vỡ cây đàn vì biết rằng trên đời này, còn tìm đâu người hiểu mình nữa!
Tình tri kỷ của người xưa đẹp như huyền thoại, dễ gì còn thấy lại những hạt châu ngọc ấy trong chốn bụi hồng!
26 năm qua, dẫu không tuyệt vọng như Bá Nha, tôi cũng chưa từng mang tâm đi tìm tri kỷ, dù mơ hồ biết nỗi trống vắng đó nơi góc khuất nội tâm mình. Chỉ một câu thư pháp viết thảo trên tường một ngôi chùa ở ngoại ô cũng đủ cho tôi phải tự xác nhận điều mình cố phủ nhận:
Người về bỏ dở chung trà nguội
Mới biết tri âm chẳng dễ là!
Vậy mà điều không tìm, không kiếm, đã bất ngờ tới. Hình ảnh tà áo nâu nhẹ như mây đã lặng thầm bước vào góc khuất nội tâm tôi lúc nào không hay, bước vào để chia sẻ như một tri kỷ.
Ai có thể hiểu được những điều mơ hồ giữa mộng và thực này?
Mà có cần thiết phải hiểu không, khi chính ta cũng không biết đâu là thực, đâu là mộng! Cái nắm bắt được trong tay hôm nay, mai mất đi không lời từ giã, có là mộng? Cái không hình không tướng nhưng thường hằng bất biến, có là thực?
Không biết thuở xưa, có khi nào Bá Nha gặp lại Tử Kỳ, qua một chuyển hóa nào khác, dù cây đàn đã đập vỡ, không còn một âm thanh nào khởi lên để có người đàn, người nghe?
Và có lẽ, cũng không ai dám khẳng định là mộng hay thực, khi sứ thần nước Ngụy từ biên giới Ấn Độ trở về, giữa đường gặp Tổ Đạt Ma quảy một chiếc dép cỏ trên vai, đi nhẹ như lướt trên mặt đất. Tổ đã viên tịch, được mai táng trên núi Hùng Nhĩ, vậy ai quảy dép về Thiên Trúc mà lúc khai quật ngôi mộ để kiểm chứng thì trong quan tài chỉ còn một chiếc!
Phải chăng khi những mất mát đau thương đời này được nhìn một cách dũng cảm, thì nó sẽ trở thành sự tiếp nối vĩnh hằng.
Trong mênh mang vạn hữu, ai biết phút giây nào một ngọn gió tiền thân chợt thoảng, và ân cần phảng phất làn hương năm cũ.
Hạnh Chi
(Tào-Khê tịnh thất, thượng tuần, Giáp Ngọ niên)
Gửi ý kiến của bạn