TRẦN THÁI TÔNG: TRẦN CẢNH
(1218 - 1277)
Năm 1225, Trần Cảnh lên ngôi, niên hiệu Trần Thái Tông. Năm 1237, Chiêu Thánh Hoàng hậu chưa có con, Trần Thủ Độ giáng làm công chúa, bắt Thuận Thiên Công chúa là vợ của Trần Liễu (anh ruột Trần Thái Tông, phụ thân Trần Hưng Đạo) đang mang thai đem ép gả cho Trần Thái Tông. Trần Liễu không nhẫn nhịn được đem quân chống lại, nhưng thế yếu nên đầu hàng. Trần Thủ Độ vung gươm đến toan giết Trần Liễu. Trần Thái Tông lấy thân che cho anh, rồi phong Trần Liễu chức An Sinh Vương, có lẽ nhà vua nhân từ và tình thủ túc khắn khít, mà xoa dịu bớt đi sự căng thẳng giữa hai chi nhà Trần chăng?.
Trần Thái Tông phản đối, đến ở chùa Phù Vân không về. Trần Thủ Độ phải dẫn quần thần đến năn nỉ, vị đại sư của chùa cũng lạy lục xin vua hồi trào, nhà vua mới chịu trở lại triều đình.
Công cuộc cải cách của nhà Trần: Nhà Trần chia nước Đại Việt ra làm 12 lộ (mỗi lộ tương đương 1 tỉnh), mỗi lộ có nhiều xã. Các quan từ Tứ phẩm trở lên, ban chức Đại tư xã, Ngũ phẩm trở xuống ban chức Tiểu tư xã, có nhiệm vụ trực tiếp với dân chúng. Để kiểm tra dân số toàn quốc, cũng như tiện việc thu thuế và tuyển chọn binh lính, nhà Trần cho lập sổ Trướng tịch.
Về kinh tế và xã hội: Dưới đời nhà Trần nông nghiệp và ngư nhiệp là căn bản, nên con đê chạy theo hai bên sông Hồng Hà được cắt cử hai quan Hà đê chánh phó sứ trông coi, nếu chỗ nào cần sửa cho bờ đê to rộng hơn, lấn vào ruộng đất của dân, thì các quan sẽ chiếu theo giá ruộng đất mà bồi thường cho dân chúng.
Về văn hóa: đời nhà Trần được khuyến khích chữ Nôm, có xu hướng tự lập. Chữ Nôm bắt đầu dùng trong thi ca, Hàn Thuyên đã dùng thơ bằng chữ Nôm để đuổi cá sấu ở sông Phú Lương. Vấn đề lịch sử nước nhà cũng được chú trọng, Trần Tấn giữ chức Tả tàng thăng Hàn trưởng, viết cuốn Việt Chí, mà sau này Lê Văn Hưu đã tu chỉnh thành: Đại Việt Sử ký, chép từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng. Tôn giáo khuyến khích đạo Phật, đạo Phật được đặc biệt ưu đãi vì có nhiều vua Trần đi tu sau khi làm Thái thượng hoàng. Việc an ninh làng xã, nếu kẻ nào tộm cắp, khi bắt được, trừng phạt rất nặng, nếu tái phạm sẽ bị giết.
Đối với dân chúng, nhà Trần đã thực hiện “Dân vi quí”, thể hiện rõ nét khi có ngoại xâm là quân Nguyên, thì triệu tập hội nghị Diên Hồng, hỏi ý kiến quân dân nên hòa hay chiến.
Việc binh chế: Vào năm 1246, nhà Trần chọn người vào quân Tứ Thiên, quân Tứ Thánh, quân Tứ Thần, các quân này đều là Túc vệ quân. Tháng 2 năm 1261, cho tuyển binh các lộ, người khỏe mạnh cho làm lính, còn lại cho làm sắc dịch cho các phủ, huyện... Kỷ luật trong quân đội rất nghiêm, kẻ nào đào ngũ sẽ bị chặt ngón chân, nếu tái phạm sẽ bị giết. Điều đáng chú ý là trong thời nhà Trần, các vương hầu được phép mộ dân gian làm lính, nên năm Quý mùi (1283) các thân vương là Quốc Hiến, Quốc Tảng... đã huy động các dân Bằng Hà (thuộc Hải Dương), Na Sầm (thuộc Lạng Sơn), An Sinh, Long Nhãn (đời Lê đổi là Phượng Nhãn) đến họp ở Vạn Kiếp.
Năm 1258, quân Nguyên đánh nước ta lần thứ nhất, Trần Thái Tông đích thân chỉ huy các tướng sĩ, đánh đuổi ngoại xâm.
Phương thức trị vì của nhà Trần rất khôn khéo, khi Thái tử đủ tài năng thì vua cha nhường ngôi và làm Thái thượng hoàng, Thái tử sẽ không bị bỡ ngỡ là một tân quân, còn tránh được việc tranh giành ngôi báu, gây cảnh nồi da xáo thịt và các quan phe phía xâu xé, có khi gây quốc gia loạn lạc. Năm Mậu ngọ (1258) Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng (Trần Thánh Tông), ông làm vua 33 năm, làm Thái thượng hoàng 19 năm, thọ 60 tuổi.
Vua Trần Thái Tông không những là vị vua cứu nước, đem thân làm tướng nơi chiến trận, không lưu luyến ngôi cao, mà còn là một triết gia về thiền học, đã trước tác Khoá Hư Lục, là cuốn sách cổ nhất, còn giữ trong kho thư tịch ở nước ta.
Cảm bội: Trần Thái Tông
Quan hầu, Chiêu Thánh thiết tha nhau
Thủ Độ lo lường, liệu trước sau
Bởi nước ngặt nghèo, vương nghiệp đế
Vì dân điêu đứng, nhận công hầu
Đánh Nguyên tơi tả, còn non nước
Đuổi giặc lẫy lừng, hết bể dâu!
Triết lý thiền môn, tồn tại mãi
Nhà Trần dựng nghiệp vững bền lâu.
Nguyễn Lộc Yên
(1218 - 1277)
Năm 1225, Trần Cảnh lên ngôi, niên hiệu Trần Thái Tông. Năm 1237, Chiêu Thánh Hoàng hậu chưa có con, Trần Thủ Độ giáng làm công chúa, bắt Thuận Thiên Công chúa là vợ của Trần Liễu (anh ruột Trần Thái Tông, phụ thân Trần Hưng Đạo) đang mang thai đem ép gả cho Trần Thái Tông. Trần Liễu không nhẫn nhịn được đem quân chống lại, nhưng thế yếu nên đầu hàng. Trần Thủ Độ vung gươm đến toan giết Trần Liễu. Trần Thái Tông lấy thân che cho anh, rồi phong Trần Liễu chức An Sinh Vương, có lẽ nhà vua nhân từ và tình thủ túc khắn khít, mà xoa dịu bớt đi sự căng thẳng giữa hai chi nhà Trần chăng?.
Trần Thái Tông phản đối, đến ở chùa Phù Vân không về. Trần Thủ Độ phải dẫn quần thần đến năn nỉ, vị đại sư của chùa cũng lạy lục xin vua hồi trào, nhà vua mới chịu trở lại triều đình.
Công cuộc cải cách của nhà Trần: Nhà Trần chia nước Đại Việt ra làm 12 lộ (mỗi lộ tương đương 1 tỉnh), mỗi lộ có nhiều xã. Các quan từ Tứ phẩm trở lên, ban chức Đại tư xã, Ngũ phẩm trở xuống ban chức Tiểu tư xã, có nhiệm vụ trực tiếp với dân chúng. Để kiểm tra dân số toàn quốc, cũng như tiện việc thu thuế và tuyển chọn binh lính, nhà Trần cho lập sổ Trướng tịch.
Về kinh tế và xã hội: Dưới đời nhà Trần nông nghiệp và ngư nhiệp là căn bản, nên con đê chạy theo hai bên sông Hồng Hà được cắt cử hai quan Hà đê chánh phó sứ trông coi, nếu chỗ nào cần sửa cho bờ đê to rộng hơn, lấn vào ruộng đất của dân, thì các quan sẽ chiếu theo giá ruộng đất mà bồi thường cho dân chúng.
Về văn hóa: đời nhà Trần được khuyến khích chữ Nôm, có xu hướng tự lập. Chữ Nôm bắt đầu dùng trong thi ca, Hàn Thuyên đã dùng thơ bằng chữ Nôm để đuổi cá sấu ở sông Phú Lương. Vấn đề lịch sử nước nhà cũng được chú trọng, Trần Tấn giữ chức Tả tàng thăng Hàn trưởng, viết cuốn Việt Chí, mà sau này Lê Văn Hưu đã tu chỉnh thành: Đại Việt Sử ký, chép từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng. Tôn giáo khuyến khích đạo Phật, đạo Phật được đặc biệt ưu đãi vì có nhiều vua Trần đi tu sau khi làm Thái thượng hoàng. Việc an ninh làng xã, nếu kẻ nào tộm cắp, khi bắt được, trừng phạt rất nặng, nếu tái phạm sẽ bị giết.
Đối với dân chúng, nhà Trần đã thực hiện “Dân vi quí”, thể hiện rõ nét khi có ngoại xâm là quân Nguyên, thì triệu tập hội nghị Diên Hồng, hỏi ý kiến quân dân nên hòa hay chiến.
Việc binh chế: Vào năm 1246, nhà Trần chọn người vào quân Tứ Thiên, quân Tứ Thánh, quân Tứ Thần, các quân này đều là Túc vệ quân. Tháng 2 năm 1261, cho tuyển binh các lộ, người khỏe mạnh cho làm lính, còn lại cho làm sắc dịch cho các phủ, huyện... Kỷ luật trong quân đội rất nghiêm, kẻ nào đào ngũ sẽ bị chặt ngón chân, nếu tái phạm sẽ bị giết. Điều đáng chú ý là trong thời nhà Trần, các vương hầu được phép mộ dân gian làm lính, nên năm Quý mùi (1283) các thân vương là Quốc Hiến, Quốc Tảng... đã huy động các dân Bằng Hà (thuộc Hải Dương), Na Sầm (thuộc Lạng Sơn), An Sinh, Long Nhãn (đời Lê đổi là Phượng Nhãn) đến họp ở Vạn Kiếp.
Năm 1258, quân Nguyên đánh nước ta lần thứ nhất, Trần Thái Tông đích thân chỉ huy các tướng sĩ, đánh đuổi ngoại xâm.
Phương thức trị vì của nhà Trần rất khôn khéo, khi Thái tử đủ tài năng thì vua cha nhường ngôi và làm Thái thượng hoàng, Thái tử sẽ không bị bỡ ngỡ là một tân quân, còn tránh được việc tranh giành ngôi báu, gây cảnh nồi da xáo thịt và các quan phe phía xâu xé, có khi gây quốc gia loạn lạc. Năm Mậu ngọ (1258) Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng (Trần Thánh Tông), ông làm vua 33 năm, làm Thái thượng hoàng 19 năm, thọ 60 tuổi.
Vua Trần Thái Tông không những là vị vua cứu nước, đem thân làm tướng nơi chiến trận, không lưu luyến ngôi cao, mà còn là một triết gia về thiền học, đã trước tác Khoá Hư Lục, là cuốn sách cổ nhất, còn giữ trong kho thư tịch ở nước ta.
Cảm bội: Trần Thái Tông
Quan hầu, Chiêu Thánh thiết tha nhau
Thủ Độ lo lường, liệu trước sau
Bởi nước ngặt nghèo, vương nghiệp đế
Vì dân điêu đứng, nhận công hầu
Đánh Nguyên tơi tả, còn non nước
Đuổi giặc lẫy lừng, hết bể dâu!
Triết lý thiền môn, tồn tại mãi
Nhà Trần dựng nghiệp vững bền lâu.
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn