Hôm nay,  

Chuyện Hồi Ký Gates

21/01/201400:00:00(Xem: 8425)
...Hầu hết dân cử, Dân Chủ hay Cộng Hoà, đều bất tài, giả dối... chỉ lo cho cái ghế của mình thôi...

Truyền thông cả tuần nay xôn xao vì cuốn hồi ký của ông Robert Gates, vừa được phát hành tuần trước, nhưng các báo đã có bản thảo từ trước nên đã trích dẫn nhiều đoạn cho thiên hạ biết trước, cũng như chính ông Gates cũng đã viết vài bài báo và lên truyền hình để giới thiệu cuốn sách.

Ông Gates là cựu bộ trưởng Quốc Phòng, được TT Bush bổ nhiệm thay thế ông Donald Rumsfeld năm 2007, sau đó được TT Obama lưu nhiệm cho đến 2011. Mặc dù là đảng viên Cộng Hoà đã từng giúp việc đắc lực các chính quyền Cộng Hoà từ Reagan đến Bush cha và con trong những trách nhiệm lớn như giám đốc CIA, nhưng ông là người nổi tiếng không phe đảng, có uy tín lớn trong chính trường. Sự bổ nhiệm của ông dưới cả hai thời Bush và Obama đã được Thượng Viện thông qua dễ dàng do hậu thuẫn của thượng nghị sĩ của cả hai chính đảng. Sau khi từ chức, ông đã được TT Obama tuyên dương và tưởng thưởng với huy chương Medal of Freedom, là huy chương cao quý nhất dành cho một nhân vật dân sự.

Hồi ký của ông Gates dầy hơn 600 trang, hiện còn đang được truyền thông và các sử gia nghiên cứu từng chi tiết. Kẻ viết này chưa được đọc. Nhưng một số chi tiết chính đã được phổ biến và bàn tán rất rộng rãi.

Hồi ký gây náo động chính trường mấy ngày qua vì đã có những lời bàn bất lợi rất nặng cho TT Obama và nội các của ông. Đại khái, xin liệt kê một số chuyện ông Gates tiết lộ dưới đây.

- TT Obama được tư lệnh chiến trường Afghanistan khẩn báo cần đôn quân. Sau khi câu giờ cả mấy tuần, mới lấy được quyết định đôn quân tương tự như TT Bush đã đôn quân tại Iraq trước đây. Nhưng lại chỉ là quyết định kiểu nửa chừng xuân, cung cấp cho vị chỉ huy tại Afghanistan thêm 30.000 quân thay vì 60.000 như được yêu cầu. Ông Gates nhận định TT Obama “không tin tưởng ở các tướng chỉ huy chiến trường, không chịu được TT Karzai của Afghanistan, không tin tưởng vào chính chiến lược của mình,… Đối với tổng thống, tất cả chỉ là chuyện làm sao rút ra cho nhanh”.

- TT Obama đã từng phân chia hai cuộc chiến: một cuộc chiến mà ông gọi là “sai lầm” ở Iraq mà ông muốn rút ra càng sớm càng tốt bằng mọi giá, và cuộc chiến “cần thiết” tại Afghanistan để tiêu diệt Al Qaeda bảo vệ nước Mỹ. Nhưng ngay cả cuộc chiến tại Afghanistan này cũng đi ngược lại quan điểm chủ hoà chống mọi chiến tranh của TT Obama. Do đó đây là một cuộc chiến miễn cưỡng, cho dù ông hô hào cần diệt Al Qaeda và chấp nhận đôn quân, chủ đích thật sự của TT Obama vẫn là … tháo chạy.

- Thái độ của TT Obama trong nội bộ lộ rõ nét đến độ đại sứ Mỹ tại Afghanistan, tháng Chạp năm 2012 đã tuyên bố “chúng tôi có một chính sách rõ ràng tại Afghanistan, nhưng cái không rõ ràng là không biết chúng tôi có đang áp dụng chính sách đó hay không” và “tôi cũng không thể khẳng định chúng tôi thật sự muốn xây dựng một quân lực Afghanistan hùng mạnh, hay chỉ muốn có một khoảng thời gian coi được –decent interval- để rút”. Đọc đến câu “decent interval” chắc không ít người Việt chúng ta sẽ nhớ đến cuốn sách của một cựu CIA ở VN mô tả chính sách của Kissinger đối với cuộc chiến tại VN và hiệp định Paris.

- TT Bush là người có tư tưởng dứt khoát, tin tưởng tuyệt đối vào chính nghiã và sự cần thiết của cả hai cuộc chiến. Do đó, đối với các quân nhân tham chiến, TT Bush thật sự có sự quan tâm và tình cảm của ông thể hiện rõ ràng khi ông tiếp cận với các quân nhân đang chiến đấu và các thương binh, cũng như gia đình các quân nhân bị tử thương. Trong khi đó, vì không hoàn toàn tin vào cuộc chiến, TT Obama lộ rõ sự thiếu nhiệt tình với các quân nhân. TT Bush cũng gần như tin tưởng tuyệt đối vào ý kiến của các tư lệnh chiến trường, nhưng TT Obama thì tuy tôn trọng các tướng lãnh chỉ huy chiến trường, nhưng luôn để tâm nghi ngờ họ đã không báo cáo tình hình một cách trung thực, mà báo cáo theo kiểu có lợi cho họ nhất. Dưới thời TT Obama, viên tướng tư lệnh McChrystal đã có thái độ bất kính đến độ bị TT Obama cách chức.

- Trên phương diện quản trị bộ máy chính quyền, TT Obama cầm đầu một guồng máy mà ngay từ đầu chỉ có mục đích tối hậu là bảo đảm TT Obama tái đắc cử trong cuộc bầu lại năm 2012. TT Obama là người tính toán rất kỹ, mọi quyết định đều phải được cân nhắc dưới khiá cạnh chính trị này. Tất cả guồng máy chính quyền được kiểm soát cực kỳ chặt chẽ và chi tiết nhất từ Tòa Bạch Ốc. Tất cả mọi quyết định của nhân viên nội các đều phải thông qua Toà Bạch Ốc. Ngay cả cuộc chiến tại Iraq và Afghanistan cũng được điều hành từ Toà Bạch Ốc. Vấn đề là ban tham mưu của TT Obama hầu hết đều là tay mơ, chẳng chút kinh nghiệm chính trị hay quân sự thực tiễn nào. Bộ trưởng Gates lên tiếng rất ngỡ ngàng khi thấy các phụ tá trẻ măng không một ngày đi lính của TT Obama bốc điện thoại ra lệnh hay thậm chí sỉ vả các tướng lãnh ba bốn sao, tư lệnh chiến trường, một chuyện mà dưới bất kỳ tổng thống nào khác, mấy anh phụ tá đó sẽ mất job ngay.

- Ông Gates có nhận định chung về các tổng thống mà ông đã phục vụ. Ông cho rằng tất cả các tổng thống Nixon, Ford, Carter, Reagan, Bush cha, và Clinton đều là những người thật tâm có lòng đối với đất nước, cho dù chính sách họ có khác biệt. TT Bush con là một lãnh tụ chín chắn –mature leader- có can đảm lấy quyết định đôn quân tại Iraq trước sự chống đối của các cố vấn, nội các và ngay cả các tướng tại Bộ Quốc Phòng, vì ông có lòng tin vào các tư lệnh chiến trường và tin vào chính nghiã của cuộc chiến. Ông sẵn sàng mang uy tín cá nhân, sự nghiệp chính trị, tên tuổi trong sử sách ra đánh cuộc với quyết định đôn quân tại Iraq mà ông cho là đúng. Riêng TT Obama, có vẻ như chỉ lo cho chuyện tái đắc cử của mình.

- PTT Biden bị chỉ trích nặng nhất, vì được mô tả như một người đã “sai lầm trong tất cả các chính sách đối ngoại quan trọng trong suốt hơn 40 năm qua”. Tháng Chạp 2011, PTT Biden buột miệng tuyên bố “Taliban không phải là kẻ thù của Mỹ”, khiến một viên chức cao cấp của Afghanistan lên tiếng thắc mắc “vậy thì lính Mỹ đến đây làm gì, sao lại tấn công chính quyền Taliban của Afghanistan?”. Ngay cả một sĩ quan Mỹ đang tham chiến tại đây cũng đặt câu hỏi “vậy tại sao ra lệnh chúng tôi bắn giết họ? Tại sao chúng tôi phải chấp nhận mạng sống bị đe dọa?”.

- Cựu Ngoại Trưởng Hillary Clinton cũng bị kể lại là bà đã quyết định chống lại cuộc đôn quân của TT Bush tại Iraq vì khi đó bà đang tranh cử tổng thống tại Iowa và bà có nhu cầu lấy hậu thuẫn của cánh tả phản chiến trong đảng Dân Chủ. Nói cách khác, tất cả cũng chỉ có mục tiêu kiếm phiếu chứ không phải vì quyền lợi của nước Mỹ hay vì sự thành bại của cuộc chiến và mạng sống của quân nhân Mỹ. Bà Hillary đã đích thân nói thẳng thừng ý kiến này với TT Obama trước mặt bộ trưởng Gates, khiến ông này bối rối không biết phản ứng như thế nào. Điểm này chắc chắn sẽ được mang ra tranh cãi khi bà Hillary quyết định ra tranh cử tổng thống trong kỳ bầu tới.

- Những chỉ trích nặng nề nhất của ông Gates được dành cho các vị dân biểu và nghị sĩ, mà theo ông, tất cả chỉ là mần tuồng trống rỗng, nói một đằng làm một nẻo. Đặc biệt, trong khi tất cả các vị dân cử lớn tiếng chỉ trích các chi tiêu phung phí, kêu gọi giảm chi, kể cả giảm chi phí quốc phòng, đóng cửa bớt các căn cứ quân sự không cần thiết hay cắt bỏ một vài loại vũ khí quá tốn kém, nhưng khi phải lấy quyết định cụ thể thì chẳng ông bà nào chấp nhận những cắt xén đụng đến cử tri của mình. Trái lại, ông bà nào cũng không bỏ qua cơ hội điện thoại riêng áp lực lên bộ trưởng quốc phòng để giúp cử tri của mình, tức là giúp chính mình, kể cả hai lãnh tụ Cộng Hoà và Dân Chủ trong thượng viện, các ông Harry Reid và Mitch McConnell.


- Ông Gates mô tả những cuộc điều trần trước quốc hội như những vụ hành hình vô bổ, chỉ là nơi các vị dân cử biểu diễn trước máy truyền hình, nói dông dài chuyện không đâu chỉ cốt lấy điểm với cử tri. Hầu hết các vị dân cử, Dân Chủ hay Cộng Hoà cũng vậy, đều bất tài, thiếu khả năng, giả dối, bất lịch sự, không lo cho quyền lợi đất nước mà chỉ lo cho cái ghế của mình thôi. Đã có nhiều lần ông Gates chỉ muốn cắt ngang các cuộc điều trần, từ chức tại chỗ vì bực mình.

- Ông Gates tuy là bộ trưởng Quốc Phòng, nhưng lại nhận định đối thủ khó trị nhất của ông chính là Bộ Quốc Phòng, một guồng máy thư lại cực kỳ nặng nề, trong đó quyền lợi phe nhóm trấn áp mọi quyết định. Các dân biểu, nghị sĩ từ liên bang đến địa phương, thống đốc, các đại diện các khối áp lực, các tướng lãnh,... đấu tranh chống nhau quyết liệt vì quyền lợi phe nhóm khi ngân sách của Bộ Quốc Phòng chiếm phần lớn nhất trong ngân sách quốc gia.

- Liên quan đến tin quốc tế, ông Gates cũng tiết lộ TT Obama đã ngăn không cho TT Đại Hàn Lee Myung Bak thả bom Bắc Hàn trả đũa vụ Bắc Hàn dội bom một hòn đảo Nam Hàn năm 2010 vì sợ gây ra chiến tranh tại đây.

Phải nói ngay, hồi ký của ông Gates đầy mâu thuẫn. Trong một cố gắng quân bằng quan điểm, ông đã nhiều lần ca tụng tất cả những người ông chỉ trích, từ TT Bush đến TT Obama, PTT Biden và bà Hillary luôn. Trong khi ông chỉ trích TT Obama đủ chuyện thì ông lại khẳng định ủng hộ tất cả những quyết định của TT Obama và khen quyết định đột kích giết Bin Laden là quyết định can đảm nhất ông đã thấy nơi một tổng thống. Trong khi ông chê PTT Biden sai lầm liên tục, thì ông lại xác nhận ông chia sẻ quan điểm với PTT Biden trên hầu hết mọi vấn đề. Ông chỉ trích bà Hillary chỉ biết lo đếm phiếu, nhưng lại ca tụng bà sẽ là một tổng thống giỏi. Ông chỉ trích quốc hội nặng nề, nhưng lại khen đa số các vị dân cử đối xử rất tử tế với ông. Người ta chỉ có thể hiểu quan điểm thực của ông Gates qua những chuyện cụ thể ông nêu ra, chứ không thể tin được những lời ca tụng chung chung, có vẻ như là những lời nói vớt vát không mấy ý nghiã.

Dĩ nhiên, chuyện các chính khách Mỹ hấp tấp viết hồi ký bôi bác các thượng cấp hay đồng sự của mình để thu tiền bán sách, hay để tự biện minh trong khi chuyện thời sự còn nóng hổi, là chuyện thường tình trong hý trường chính trị Mỹ. Trước đây, TT Bush đã lãnh đủ hồi ký của cựu bộ trưởng Tài Chánh Paul O’Neill, cựu phát ngôn viên Scott McClellan, cựu cố vấn chống khủng bố Richard Clarke,… TT Clinton cũng lãnh đủ từ phụ tá thân cận nhất George Stephanopoulos. Nhưng hồi ký của ông Gates có điểm đặc biệt là ông là người phục vụ cho 8 vị tổng thống, cả Cộng Hoà lẫn Dân Chủ, tức là tính phe đảng ít nhất, không như mấy người phụ tá vừa nêu của các TT Bush và Clinton.

Chính vì uy tín cá nhân rất lớn của ông Gates nên những chỉ trích của ông trở thành nặng ký nhất. Và dĩ nhiên truyền thông phe ta cũng đã tấn công ông Gates mạnh hơn bao giờ hết. Họ chiả mũi dùi vào sự kiện hồi ký của ông Gates chỉ trích TT Obama được xuất bản khi TT Obama vẫn còn tại chức, và cho đó là hành động thiếu tự trọng –dishonorable. Truyền thông dòng chính quên một điều là cả ba cuốn hồi ký của ba phụ tá của TT Bush nêu trên đều được phát hành khi TT Bush cũng còn đang tại chức. Hồi ký của các ông O’Neill và Clarke phát hành năm 2004 trong khi hồi ký của ông McClellan phát hành đầu 2008. Cả ba người đều mạt sát TT Bush không nương tay. Khi đó, không thấy báo phe ta nào chê mấy ông đó là “dishonorable” mà chỉ thấy ca ngợi họ đã dám nói lên sự thật. Thế mới thấy truyền thông dòng chính phe đảng như thế nào.

Được hỏi về cuốn hồi ký, TT Obama, qua phát ngôn viên Tòa Bạch Ốc, chỉ vắn tắt đề cao những đóng góp trước đây của bộ trưởng Gates, cũng như giải thích TT Obama chủ trương dùng các phụ tá có khác biệt ý kiến để có thể thu thập ý kiến một cách rộng rãi. Chưa thấy PTT Biden và cựu ngoại trưởng Hillary Clinton có phản ứng gì.

Nói chung, thái độ của TT Obama đối với hai cuộc chiến tại Iraq và Afghanistan, theo như sự trình bày của ông Gates, không có gì đáng ngạc nhiên, mà chỉ là xác nhận những gì mọi người đã nghĩ. TT Obama trong thâm tâm, bất kể những lời tuyên bố đủ kiểu, chỉ muốn chấm dứt hai cuộc chiến này, và đã tìm đủ mọi cách chấm dứt và rút lính Mỹ về, càng sớm càng tốt.

Những người chủ hoà sẽ hoan hô thái độ này của TT Obama dĩ nhiên. Nhưng có lẽ họ quên rằng vấn đề không giản dị như vậy.

Trong cuộc chiến tại Việt Nam, dù sao thì quân CSBV cũng không đe dọa lãnh thổ Mỹ hay quyền lợi gì của Mỹ tại Đông Nam Á hay bất cứ nơi nào khác. Mỹ có rút quân ra khỏi Việt Nam thì chỉ có dân Việt là bị thiệt hại nặng thôi, không sứt móng chân nào của Mỹ, ngoài việc mất uy tín chính trị dĩ nhiên. Nhưng hai cuộc chiến tại Trung Đông hoàn toàn khác. Đây là hai cuộc chiến chống khủng bố, nhằm tiêu diệt các lực lượng khủng bố, hay ít ra không cho các lực lượng này đất dung thân, luyện tập quân khủng bố, chế tạo vũ khí, làm bàn đạp để trực tiếp tấn công vào Mỹ như vụ 9/11.

Nếu như Mỹ không diệt hoàn toàn hay phần lớn sức mạnh của các lực lượng khủng bố thì các lực lượng này lúc nào cũng là một đe dọa trực tiếp lên an ninh của lãnh thổ Mỹ và an toàn cho dân Mỹ.

Việc TT Obama bằng mọi giá hấp tấp chấm dứt hai cuộc chiến, rút quân về đã để lại những hậu quả mà cho đến nay chưa ai dám xác định sẽ là tốt hay xấu cho nước Mỹ trong những năm tháng tới. Chỉ biết là hai cuộc chiến này, tuy đã biến mất khỏi trang nhất các báo phe ta, nhưng thật sự chỉ chấm dứt đối với Mỹ thôi, chứ chưa chấm dứt đối với hai xứ này. Trái lại, hai cuộc chiến có khuynh hướng ngày càng bộc phát mạnh.

Tin mới nhất cho thấy lực lượng Al Qaeda đã chiếm hoàn toàn thành phố Falluja, một trong những cứ điểm chiến lược quan trọng nhất nhì tại Iraq mà quân Mỹ đã tốn không biết bao nhiêu xương máu để bảo vệ, trong khi khủng bố tung bom giết chết hơn 40 người tại hai nơi ngay tại thủ đô Bagdad trong một ngày 13/1 vừa qua. Nội trong một năm 2013, hơn 8.000 người đã thiệt mạng trong cuộc chiến kéo dài này. Chính quyền Iraq, từ thủ tướng Maliki đến đại sứ Iraq tại Mỹ, đã lên tiếng “phàn nàn” về sự phủi tay của chính quyền Obama.

Ngoại trưởng John Kerry đã thẳng thừng tuyên bố “đây là chuyện nội bộ Iraq”. Hãy đợi xem đến khi Al Qaeda lật đổ được các chính quyền yếu ớt của Iraq và Afghanistan xem đây có còn là chuyện “nội bộ” của hai xứ này không, hay lại trở thành một đe dọa trực tiếp lên an ninh Mỹ khi một trong hai xứ này, hai cả hai xứ này, biến thành căn cứ mới của một Al Qaeda tái sinh.

Hy vọng là sẽ không có ngày một tổng thống Mỹ nào đó lại phải ra lệnh thủy quân lục chiến Mỹ trở lại Iraq và Afghanistan để diệt khủng bố. Khi đó, TT Obama có viết bao nhiêu hồi ký để biện giải cũng khó tránh được trách nhiệm với lịch sử. (19-01-14)

Vũ Linh

Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: Vulinh11@gmail.com. Bài của tác giả được đăng trên Việt Báo mỗi thứ Ba.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một quan điểm lạc quan đang dấy lên trong hàng ngũ Lãnh đạo đảng CSVN khi bước vào năm 2024, nhưng thực tế tiềm ẩn những khó khăn chưa lường trước được...
Nếu Donald Trump giành lại được Nhà Trắng vào tháng 11, năm nay có thể đánh dấu một bước ngoặt đối với quyền lực của Mỹ. Cuối cùng, nỗi sợ hãi về tình trạng suy tàn đã khiến cho người Mỹ bận tâm kể từ thời thuộc địa sẽ được biện minh. Hầu hết người Mỹ tin rằng, Hoa Kỳ trong tình trạng suy tàn, Donald Trump tuyên bố rằng ông có thể “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Nhưng tiền đề của Trump đơn giản là sai, và các biện pháp trị liệu được ông đề xuất đặt ra mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ.
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.