Hôm nay,  

Chỉ Người Việt Mang Hồn Việt mới Sống Chết Với Tổ Quốc VN

21/01/201400:00:00(Xem: 5244)
Chỉ có những người bị hội chứng hoang tưởng, bị các loại tâm thần phân liệt hay nói theo ngôn ngữ bình dân là điên nặng mới mất khả năng nhận thức, tư duy theo lý lẽ thông thường của cuộc sống đời thường và những người phát triển tự nhiên với bộ óc bình thường, ai cũng có thể nhận ra một điều rất đơn giản, là không ai hiểu ta, thương ta bằng chính bản thân ta. Từ đó suy rộng ra, mọi người lương thiện đều tương đối ít nhiều có thể hiểu được mức độ năng lực, khả năng cũng như chiều sâu tâm lý yêu thương, giận ghét thật sự của cá nhân mình. Điều đương nhiên nếu mình không yêu thương mình, không yêu thương người thân cật ruột, bạn bè lối xóm, những người anh em đồng bào cùng khóc cười theo mệnh nước nổi trôi…không thương nhớ cây đa cũ, bến đò xưa, con đường quê ngày hai buổi đến trường với nhiều kỷ niệm vui buồn, nhục vinh gắn bó…Thì những điều đại loại như chuyện sống chết vì lý tưởng độc lập, tự do…vì thế giới đại đồng hay bài tỏ lòng thương yêu tổ quốc xa xăm, nhớ thương khóc lóc ông tây bà xẩm xa lạ không quen biết…hẳn ai cũng thấy rõ “ý đồ”, thấy có cái gì đó trái lẽ tự nhiên thiếu lương thiện, nếu không nói là gian manh, giả tạo!

Cách lý giải về hiểu biết, về yêu thương của bản thể lẫn khách thể vừa diễn giải chỉ ra rằng, chắc không ai hiểu cộng sản Việt Nam bằng người Việt Nam và không người Việt Nam nào hiểu cộng sản bằng những người cộng sản đã rời bỏ hàng ngũ cộng sản. Cũng như để vạch trần dối trá, tội ác cộng sản Việt Nam một cách chính xác, thuyết phục không ai làm hay hơn người Việt Nam, những người đã từng là nạn nhân, đã từng tin, nghe theo cộng sản, phục vụ cho đảng, cho chế độ cộng sản và không ai yêu thương, sống chết với đất nước Việt Nam hơn con người Việt Nam. Vì thế muốn giải trừ kiếp nạn cộng sản, muốn xây dựng phát triển Việt Nam hiệu quả, không ai khác là phải do chính con người Việt Nam, những người đủ trải nghiệm hiểu biết cộng sản, đủ tâm huyết yêu thương, khao khát, cống hiến cho đất nước Việt Nam.

Nội dung bài viết này sẽ không bàn đến chuyện quá khứ bởi không ai thay đổi được quá khứ, dù biết rằng quá khứ là bài học hữu ích, là nền tảng điều chỉnh hành vi hiện tại để hoàn thiện, định hình cho cuộc sống tương lai và nội dung bài viết chỉ bàn đến một số điểm then chốt về xây dựng, phát triển đất nước trong giai đoạn được gọi là đổi mới của đảng cộng sản Việt Nam.

Phải nói rằng trong giai đoạn được gọi là đổi mới về phương diện kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực chất chỉ là bắt chước, mô phỏng làm theo cái cũ của nền kinh tế Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam trước năm 1975 nhưng được lãnh đạo cuồng tín, trí tuệ có vấn đề, ngờ ngệch bảo rằng “có đảng cộng sản mới có đổi mới” (?) và đổi mới song song tồn tại cả hai mặt tiêu cực lẫn tích cực - mặt tích cực được đảng, nhà nước thổi phồng phô trương, tuyên truyền không tiếc lời nhằm làm giảm nhẹ lẫn che dấu những mặt tiêu cực gây hậu quả nghiêm trọng khó khắc phục cho nhu cầu phát triển quốc gia theo hướng giàu đẹp, bền vững và cho cuộc sống người dân được tự do, ấm no, hạnh phúc.

Chẳng hạn như khi hô hào đổi mới, cộng sản Việt Nam tháo gở được cấm vận, thoát khỏi vòng vây cô lập của thế giới tự do, thu hút đầu tư nước ngoài, nhận viện trợ tài chánh không hoàn lại, nhận được hỗ trợ nguồn vốn ưu đãi với lãi suất thấp, giao lưu thương mại thuận lợi, tiếp cận nền khoa học kỹ thuật hiện đại của các nước dân chủ giàu mạnh…giúp cho bộ mặt Việt Nam sáng sủa hơn, cuộc sống vật chất có phần khá lên, nhất là thuận lợi trong công tác tuyên truyền, qua bộ mặt hào nhoáng phồn vinh giả tạo thiếu thực chất, không bền vững nhằm che dấu, khỏa lấp những công trình, dự án, chính sách xây dựng, phát triển thiếu tầm nhìn chiến lược lẫn chiều sâu thực chất, khó nhận ra với cái nhìn hời hợt, lạc quan tếu của không ít người, rằng đảng lãnh đạo “tài tình, sáng suốt...”

Bên cạnh bộ mặt hào nhoáng tích cực của đổi mới là những tiêu cực như nợ nần nước ngoài chồng chất trên đầu người dân ngày càng cao, khoảng cách giàu nghèo ngày càng xa và các quan tham vô đạo đức cấu kết, tạo điều kiện cho các nhóm lợi ích hình thành xâu xé các nguồn viện trợ nước ngoài, xẻ thịt tài nguyên quốc gia vô tội vạ, tạo nên bất công trong xã hội, bất bình trong nhân dân là nguồn gốc của bất ổn kinh tế – xã hội, là nguyên nhân của bạo động lật đổ, làm cách mạng như lịch sử cách mạng của loài người đã từng diễn ra chứ không có thế lực thù địch nào gây ra mối đe dọa cho chế độ!

Hiện nay với những bất cập, lạc hậu, tồi dở do nhiều nguyên nhân hiện hữu, tồn tại trong nhà nước cộng sản Việt Nam và trong thời gian dài mấy mươi năm đã có rất nhiều chuyên gia quốc tế ở mọi lãnh vực ngành nghề bày tỏ thiện chí phân tích tình hình, tích cực đóng ý kiến cải cách thiết thực hữu ích cho đất nước, con người Việt nam. Có người tình nguyện làm cố vấn không công bán thời, có người làm việc toàn thời có nhận lương làm việc cho đảng, nhà nước cộng sản nhưng vẫn chưa có dấu hiệu tiến bộ khả quan. Bộ máy nhà nước Việt Nam vẫn như con tàu rệu rã đắp vá chỗ này lại gặp phải thủng vỡ chỗ khác nghiêm trọng hơn, vẫn lững lờ chìm nổi giữa giòng xoáy “luẩn quẩn” khủng hoảng, suy thoái không lối thoát.

Có thể những chuyên gia tài năng, hàng đầu của quốc tế “cố vấn” không hiệu quả trong hệ thống tổ chức chính trị Việt Nam, là bởi họ chưa hiểu được, chưa hiểu hết bản chất không trong sáng, thiếu thiện chí đổi mới, thậm chí đổi mới chỉ là chiêu trò giả vờ, mang tính đối phó để nhận được viện trợ, đầu tư nước ngoài của đảng cộng sản - đảng cầm quyền lãnh đạo toàn diện kinh tế, xã hội và các chuyên gia quốc tế với đầu óc quen nếp suy nghĩ trung thực, ngây thơ trong xã hội trong sáng, minh bạch đã chết ngộp với các bản báo cáo láo của các quan chức vừa gian, vừa bất tài của đảng cộng sản thì làm gì họ có được những lời cố vấn, những bản văn nghiên cứu chính xác để hoạch định những kế hoạch hữu hiệu cho cải cách, đổi mới kinh tế - xã hội Việt Nam?

Hẳn ai cũng thấy trong những năm đầu đổi mới đã thu hút đầu tư lẫn viện trợ nước ngoài ồ ạt đổ vào Việt Nam giúp nâng cao mức sống tạo niềm tin, niềm hy vọng không nhỏ trong lòng người dân Việt Nam nhưng rồi sau một thời gian hứng khởi của đổi mới thì trong lòng kinh tế - xã hội, xã hội chủ nghĩa phát sinh các liên minh ma quỷ chằng chịt, chồng chéo lên nhau như: quan tham cấu kết với nhóm lợi ích; nhóm lợi ích hợp tác với băng đảng xã hội đen; băng đảng xã hội đen bắt tay với tham quan. Và chuỗi tam giác “tham quan – nhóm lợi ích – xã hội đen” như vòng tròn khép kín dựa dẫm vào nhau cùng tồn tại, cùng ra tay tàn phá đất nước, cùng gây tội ác kinh hoàng hơn những gì đổi mới đem lại cho mặt bằng chung của đời sống người dân, cho đất nước tiến lên hùng cường, thịnh vượng.


Đã hơn hai mươi năm được gọi là đổi mới, bộ mặt vật chất bề nổi của đất nước Việt Nam có sáng sủa hơn như đường xá cầu cống, nhà ở sang trọng, chung cư cao tầng, khu nghỉ dưỡng, khu vui chơi giải trí phục vụ du lịch “hoành tráng”, đằng sau nó là những thân phận của không ít con người Việt Nam sống vô gia cư, chết vô địa táng…và các khu công nghiệp, vùng nông nghiệp nhà máy, công trường thi nhau mọc tràn lan vô tổ chức của những kẻ chân mang dép lốp, tóc còn bốc phèn, mộng mơ bay vào vũ trụ! Song song với lớp son chưng diện bề ngoài của nền kinh tế phát triển trên hoang mạc cát không thực chất, là những món nợ nước ngoài không hề nhỏ và chính sách phát triển kinh tế, xã hội thiếu chiều sâu, chỉ nhờ vào các khoản viện trợ không hoàn lại lẫn vốn vay ưu đãi có thời hạn cùng với những mục tiêu, chương trình phát triển được Liên Hiệp Quốc hổ trợ.

Có lẽ không ít người biết viện trợ, hổ trợ của nước ngoài, kể cả của người Việt hải ngoại gởi về giúp thân nhân hơn hai mươi năm qua không hề nhỏ nhưng không có thống kê công bố chính thức của nhà nước cộng sản nên tạm sử dụng nguồn tính toán không chính thức của một chuyên gia ẩn danh ước chừng như sau:

- ODA không hoàn lại: 6,67 tỷ đô la Mỹ.

- Vay ODA ưu đãi: 30,83 tỷ đô la Mỹ.

- Các khoản vay ưu đãi từ nước ngoài: 21,27 tỷ đô la Mỹ.

- Các khoản vay được chính phủ bảo lãnh: 14 tỷ đô la Mỹ.

- Trái phiếu địa phương: 0,7 tỷ đô la Mỹ.

- Tổng dư nợ của doanh nghiệp nhà nước: 62 tỷ đô la Mỹ.

- Tổng đầu tư nước ngoài FDI: 222 tỷ đô la Mỹ.

- Đầu tư gián tiếp của nước ngoài: khoảng 30 tỷ đô la Mỹ.

- Người Việt hải ngoại: trên dưới 200 tỷ đô la Mỹ.

Tất cả trợ giúp gián tiếp hay trực tiếp đều có nguồn gốc từ việc ký kết các công ước quốc tế, hứa hẹn tuân thủ về nhân quyền, về thương mãi minh bạch công bằng, về bảo vệ môi sinh môi trường, về phục vụ mục tiêu hòa bình, về lợi ích chung của cộng đồng nhân loại…Thế nhưng sau hơn hai mươi năm đổi mới, với nguồn vốn khổng lồ, với sự giúp đỡ nhiệt tình của các nước dân chủ tiến bộ, giàu mạnh tạo mọi điều kiện thuận lợi cho Việt Nam hội nhập vào đời sống chính trị văn minh nhưng nhà nước cộng sản Việt Nam không những không tiến bộ mà còn thực hiện những bước lùi đáng lo ngại, đáng thất vọng, là củng cố độc tài, gia tăng đàn áp, phát triển tội ác và quyền con người cơ bản không được cải thiện trong thực tế đời sống, ngày càng đi xuống cuối bảng danh sách hạng mục kém “chất lượng sống” của thế giới.

Thời gian hơn hai mươi năm đủ dài cho thực hiện đổi mới, giờ nhìn lại kết quả đổi mới hay nói cách khác là tổng kết thực trạng đổi mới phơi ra trần trụi những bước lùi đáng sợ như: chính trị đầy dẫy bạo lực khủng bố; kinh tế hiển hiện dấu hiệu chết lâm sàng; văn hóa nằm dưới vùng trũng vô hồn mất dần bản sắc; xã hội băng hoại bất công tràn lan đáng kinh sợ…Tất cả đã đủ cơ sở để kết luận rằng, đảng cộng sản Việt Nam không thực tâm đổi mới cũng như không có khả năng tự đổi mới mà phải cần có lực đẩy tác động mạnh từ bên ngoài mới có thể tạo được chuyển đổi tích cực để đổi mới tốt đẹp hơn cho Việt Nam.

Hơn hai mươi năm, thiện chí của các chuyên gia quốc tế, các tổ chức lợi nhuận phi lợi nhuận, các tổ chức chính phủ phi chính phủ dần dần nhận ra bản chất đổi mới với nhiều cam kết quốc tế của đảng cộng sản Việt nam chỉ là “hứa hẹn”, là lừa đảo khiến nhiệt tình hợp tác, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho Việt Nam xây dựng, phát triển đổi mới phai nhạt, không còn hăm hở như lúc ban đầu, dù trong thực tế vẫn còn một số không nhiều cá nhân, tổ chức, chính phủ ngoài Việt nam bám vào mục tiêu hô hào “đổi” nhưng không tạo ra điều gì “mới” có thực chất trên mọi phương diện tổ chức đổi mới để làm bệ phóng cho bước chuyển đổi từ độc tài sang dân chủ của đảng cộng sản Việt Nam. Qua đó, không loại trừ khả năng, các cá nhân, tổ chức có yếu tố nước ngoài đến thời điểm này vẫn còn ủng hộ, đi theo phục vụ đổi mới giả tạo của chế độ độc tài cộng sản, không có lý do nào khác là vì quyền, lợi ích cá nhân, tổ chức lẫn tổ quốc của họ, cũng là hợp lẽ tự nhiên không có gì đáng chê trách?

Điều quan trọng khác cũng cần nên hiểu là chính trị dân chủ phải đi đôi với kinh tế tự do, thị trường tự do và kinh tế thị trường là vùng tự do cạnh tranh, là nơi thi thố tài năng, là chỗ thể hiện năng lực lành mạnh của cá nhân tập thể, của địa phương vùng miền, của quốc gia quốc tế...Tâm lý chung của mọi người thường theo thứ tự ưu tiên là ai cũng nghĩ đến mình, gia đình mình, làng xóm mình, quốc gia mình rồi mới đến thế giới, đến vũ trụ bao la.

Do đó, những người nước ngoài, những quốc gia văn minh sống trong cộng đồng nhân loại có thiện tâm muốn giúp Việt Nam thay đổi tốt đẹp hơn nhưng những “yếu tố nước ngoài” không ai sống chết với đổi mới Việt Nam và thiện chí cùng với lòng thương người có mức giới hạn của nó nên người ta cũng không ngần ngại buông tay, bỏ mặc những kẻ ngoan cố ngu dốt, cứ tự cho mình là khôn ngoan và với lối sống, nếp nghĩ khoa học, thực dụng trong nền kinh tế thị trường, người ta cũng không ngần ngại sử dụng ngôn ngữ cầu an cầu tài, nghi thức ngoại giao để chôn đối thủ cạnh tranh tiềm năng trong hoang mộ ảo tưởng chủ nghĩa, để “đối thủ” tự sướng ra miệng “...mình như thế nào ngưòi ta mới mời mình chứ...vị thế Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng đuợc nâng cao...” để khuyến khích “đối thủ” ngây thơ bám giữ độc tài như lời nói dối ngọt ngào đẩy đối thủ cạnh tranh vào tử địa.

Cũng nên hiểu thêm rằng tự do, dân chủ, nhân quyền là giá trị chung của nhân loại và thể chế chính trị dân chủ qua thực tế tổ chức cai trị được chứng minh là công cụ hữu hiệu, là nền tảng xây dựng, phát triển có khả năng mang đến dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh trong thời hiện tại. Cũng như theo cách lý giải về hiểu biết, về yêu thương của bản thể lẫn khách thể ở phần mở đầu của bài viết này, thì không có người nước ngoài hay tư tưởng ngoại lai nào hiểu rõ thủ đoạn xảo quyệt của cộng sản Việt Nam hơn người Việt nam và không có yếu tố nước ngoài hay kẻ lai căng nào thánh thiện, cao cả đến mức hy sinh thân mình cho dân tộc, đất nước Việt Nam. Thực tế cuộc sống cho thấy, chỉ có người Việt Nam mới hiểu rõ bản chất lưu manh lẫn gian manh của đảng cộng sản Việt Nam, chỉ có người Việt Nam mới giải thoát được kiếp nạn cộng sản và chỉ có người Việt Nam mang hồn Việt Nam mới sẵn sàng chiến đấu “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” vì giá trị chung tự do, dân chủ, nhân quyền của nhân loại cũng chính là tương lai, là niềm hy vọng vươn lên của đất nước, dân tộc Việt Nam.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
Đến giữa tháng 3 năm nay, hầu hết chúng ta đều thấy rõ, Donald Trump sẽ là ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng Hòa và Joe Biden là ứng cử viên tổng thống của Democrat. Ngoại trừ vấn đề đột ngột về sức khỏe hoặc tử vong, có lẽ sẽ không có thay đổi ngôi vị của hai ứng cử viên này. Hai lão ông suýt soát tuổi đời, cả hai bộ não đang đà thối hóa, cả hai khả năng quyết định đều đáng nghi ngờ. Hoa Kỳ nổi tiếng là đất nước của những người trẻ, đang phải chọn lựa một trong hai lão ông làm người lãnh đạo, chẳng phải là điều thiếu phù hợp hay sao? Trong lẽ bình thường để bù đắp sức nặng của tuổi tác, con đường đua tranh vào Tòa Bạch Ốc, cần phải có hai vị ứng cử viên phó tổng thống trẻ tuổi, được đa số ủng hộ, vì cơ hội khá lớn phải thay thế tổng thống trong nhiệm kỳ có thể xảy ra. Hơn nữa, sẽ là ứng cử viên tổng thống sau khi lão ông hết thời hạn bốn năm. Vị trí và vai trò của nhân vật phó này sẽ vô cùng quan trọng trong lần tranh cử 2024.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.