TỈNH KON TUM
Tỉnh Kon Tum, diện tích 9.690 km vuông. Dân số năm 2011 là 453.200 người, mật độ 47 người/km vuông. Sắc dân: Kinh, Ba Na, Giẻ Riêng. Gồm có: Thành phố Kon Tum và 8 huyện: Đắk Glei, Ngọc Hồi, Đắk Tô, Kon Rẫy, Kon Plông, Đắk Hà, Sa Thầy, Tu Mơ Rông. Tỉnh lỵ ở thành phố Kon Tum. Kon Tum bắc giáp tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi, tây giáp nước Lào (142 km) và Cao Miên (95 km), nam và đông nam giáp tỉnh Gia Lai. Nhiệt độ trung bình 23,5 độ C. Kon Tum là nơi phát nguyên các sông: Sông Tranh, Thu Bồn, Trà Khúc, Đà Rằng.
Lịch sử tỉnh Kon Tum: Năm 1904, tỉnh Pleiku được thành lập, tách từ tỉnh Bình Định. Ngày 9-2-1913, tỉnh Kon Tum được thành lập, gồm toàn bộ tỉnh Pleiku trước kia. Tỉnh Kon Tum lúc bấy giờ bao gồm Đại lý Kon Tum tách từ tỉnh Bình Định, Đại lý Cheo Reo tách từ tỉnh Phú Yên. Năm 1917, tổng Tân Phong và tổng An Khê thuộc tỉnh Bình Định được nhập vào Kon Tum. Năm 1923, tỉnh Đắk Lắk mới được tái lập, tách ra khỏi tỉnh Kon Tum. Năm 1943, thì Đại lý An Khê tách từ tỉnh Kon Tum để nhập vào tỉnh Pleiku. Năm 1976, tỉnh Kon Tum sáp nhập với Gia Lai thành tỉnh Gia Lai-Kon Tum. Năm 1991, tách tỉnh Gia Lai-Kon Tum thành hai tỉnh Kon Tum và Gia Lai.
Kon Tum về giao thông, có quốc lộ 14 đi Gia Lai, Đắk Lắk, Quảng Nam, quốc lộ 24 đi Quảng Ngãi, quốc lộ 40 đi qua Lào.
Kon Tum kinh tế phát triển chậm chạp. Lâm sản dồi dào, đồng cỏ tươi tốt, chăn nuôi thuận lợi. Kon Tum có chất đất Bazan, rất thích hợp trồng cây công nghiệp như cao su, cà phê, chè...
Lễ hội ở Kon Tum, cũng giống như đồng bào các tỉnh khác ở Tây Nguyên: Lễ đâm trâu, lễ mừng lúa mới, lễ bỏ mả và lễ hội Cồng chiêng... Nhà mồ của người Thượng ở Tây Nguyên, cất bằng cây rừng, lợp tranh che nắng sương, để một số vật dụng như đồ săn bắn, dày dép và tượng gỗ, khoảng 3 năm thì làm lễ bỏ mả. Khi làm lễ: Mọi người ăn uống, rồi nhảy múa xung quanh mộ, sau lễ này người goá vợ (hay goá chồng) được giải tang.
Kon Tum có nhiều sông suối, thắng cảnh, như: Thác Yaly, có nhà máy thủy điện, sản lượng 3,7 tỉ kw/h. Kon Tum người Ba Na sinh sống đông nhất, tiếng Ba Na gọi Kon là làng, Tum là hồ, Kon Tum có nghĩa là làng có nhiều hồ.
Nhà sàn của người Thượng, hình vuông hay chữ nhật, thường làm bằng nhiều thanh tre ghép lại, cầu thang là một khúc gỗ to, được đục đẽo thành từng bậc để lên xuống. Giữa nhà sàn là bếp lửa, những người trong gia đình khi rảnh rỗi, ngồi bên bếp lửa hàn huyên. Nhà Rông cất bởi 8 trụ to chắc chắn, lợp tranh, những vì kèo trang trí hoa văn, nhà Rông thường lớn gấp ba, bốn lần nhà thường. Nhà Rông dùng để họp hành, đình đám, lễ hội.
Kon Tum, núi bạc, rừng vàng
Gỗ nhiều, thú lạ, ngút ngàn đất đai
Cảm tác: Non nước Kon Tum
Kon Tum đất rộng ở cao nguyên
Nguồn gốc suối sông, đến các miền
Hướng bắc, láng giềng, kề xứ Quảng
Phía tây, biên giới, nước Lào, Miên
.
Kon Tum, rừng núi khắp gần xa
Lâm sản dồi dào, cỏ mượt mà
Đường sá núi đèo, đường khúc khuỷu
Đất đai, ruộng rẫy, đất bao la
.
Kon Tum rừng rậm, núi non gần
Khuya khoắt âm u, chút ngại ngần
Sáng sớm, chim kêu, lòng rộn rã
Tối khuya, vượn hú, dạ bâng khuâng
.
Nhà mồ che chở, nắng cùng sương
Người Thượng, tang ma, khéo liệu lường
Cây cối dựng chòi, rầu rĩ nhớ
Tranh tre lợp mộ, tỉ tê thương
.
Ba Na nhà ở, cất trên đồi
Cửa ngõ, mái, sàn, đủ hẳn hoi
Đục đẽo cầu thang, tung tẩy bước
Bập bùng bếp lửa, quẩn quanh ngồi
.
Hội hè, người Thượng, ở nhà Rông
Xúm xít, buồn vui, cả cộng đồng
Đình đám bản làng, mong mỏi dạ
Kon Tum non nước, vấn vương lòng
Nguyễn Lộc Yên
Tỉnh Kon Tum, diện tích 9.690 km vuông. Dân số năm 2011 là 453.200 người, mật độ 47 người/km vuông. Sắc dân: Kinh, Ba Na, Giẻ Riêng. Gồm có: Thành phố Kon Tum và 8 huyện: Đắk Glei, Ngọc Hồi, Đắk Tô, Kon Rẫy, Kon Plông, Đắk Hà, Sa Thầy, Tu Mơ Rông. Tỉnh lỵ ở thành phố Kon Tum. Kon Tum bắc giáp tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi, tây giáp nước Lào (142 km) và Cao Miên (95 km), nam và đông nam giáp tỉnh Gia Lai. Nhiệt độ trung bình 23,5 độ C. Kon Tum là nơi phát nguyên các sông: Sông Tranh, Thu Bồn, Trà Khúc, Đà Rằng.
Lịch sử tỉnh Kon Tum: Năm 1904, tỉnh Pleiku được thành lập, tách từ tỉnh Bình Định. Ngày 9-2-1913, tỉnh Kon Tum được thành lập, gồm toàn bộ tỉnh Pleiku trước kia. Tỉnh Kon Tum lúc bấy giờ bao gồm Đại lý Kon Tum tách từ tỉnh Bình Định, Đại lý Cheo Reo tách từ tỉnh Phú Yên. Năm 1917, tổng Tân Phong và tổng An Khê thuộc tỉnh Bình Định được nhập vào Kon Tum. Năm 1923, tỉnh Đắk Lắk mới được tái lập, tách ra khỏi tỉnh Kon Tum. Năm 1943, thì Đại lý An Khê tách từ tỉnh Kon Tum để nhập vào tỉnh Pleiku. Năm 1976, tỉnh Kon Tum sáp nhập với Gia Lai thành tỉnh Gia Lai-Kon Tum. Năm 1991, tách tỉnh Gia Lai-Kon Tum thành hai tỉnh Kon Tum và Gia Lai.
Kon Tum về giao thông, có quốc lộ 14 đi Gia Lai, Đắk Lắk, Quảng Nam, quốc lộ 24 đi Quảng Ngãi, quốc lộ 40 đi qua Lào.
Kon Tum kinh tế phát triển chậm chạp. Lâm sản dồi dào, đồng cỏ tươi tốt, chăn nuôi thuận lợi. Kon Tum có chất đất Bazan, rất thích hợp trồng cây công nghiệp như cao su, cà phê, chè...
Lễ hội ở Kon Tum, cũng giống như đồng bào các tỉnh khác ở Tây Nguyên: Lễ đâm trâu, lễ mừng lúa mới, lễ bỏ mả và lễ hội Cồng chiêng... Nhà mồ của người Thượng ở Tây Nguyên, cất bằng cây rừng, lợp tranh che nắng sương, để một số vật dụng như đồ săn bắn, dày dép và tượng gỗ, khoảng 3 năm thì làm lễ bỏ mả. Khi làm lễ: Mọi người ăn uống, rồi nhảy múa xung quanh mộ, sau lễ này người goá vợ (hay goá chồng) được giải tang.
Kon Tum có nhiều sông suối, thắng cảnh, như: Thác Yaly, có nhà máy thủy điện, sản lượng 3,7 tỉ kw/h. Kon Tum người Ba Na sinh sống đông nhất, tiếng Ba Na gọi Kon là làng, Tum là hồ, Kon Tum có nghĩa là làng có nhiều hồ.
Nhà sàn của người Thượng, hình vuông hay chữ nhật, thường làm bằng nhiều thanh tre ghép lại, cầu thang là một khúc gỗ to, được đục đẽo thành từng bậc để lên xuống. Giữa nhà sàn là bếp lửa, những người trong gia đình khi rảnh rỗi, ngồi bên bếp lửa hàn huyên. Nhà Rông cất bởi 8 trụ to chắc chắn, lợp tranh, những vì kèo trang trí hoa văn, nhà Rông thường lớn gấp ba, bốn lần nhà thường. Nhà Rông dùng để họp hành, đình đám, lễ hội.
Kon Tum, núi bạc, rừng vàng
Gỗ nhiều, thú lạ, ngút ngàn đất đai
Cảm tác: Non nước Kon Tum
Kon Tum đất rộng ở cao nguyên
Nguồn gốc suối sông, đến các miền
Hướng bắc, láng giềng, kề xứ Quảng
Phía tây, biên giới, nước Lào, Miên
.
Kon Tum, rừng núi khắp gần xa
Lâm sản dồi dào, cỏ mượt mà
Đường sá núi đèo, đường khúc khuỷu
Đất đai, ruộng rẫy, đất bao la
.
Kon Tum rừng rậm, núi non gần
Khuya khoắt âm u, chút ngại ngần
Sáng sớm, chim kêu, lòng rộn rã
Tối khuya, vượn hú, dạ bâng khuâng
.
Nhà mồ che chở, nắng cùng sương
Người Thượng, tang ma, khéo liệu lường
Cây cối dựng chòi, rầu rĩ nhớ
Tranh tre lợp mộ, tỉ tê thương
.
Ba Na nhà ở, cất trên đồi
Cửa ngõ, mái, sàn, đủ hẳn hoi
Đục đẽo cầu thang, tung tẩy bước
Bập bùng bếp lửa, quẩn quanh ngồi
.
Hội hè, người Thượng, ở nhà Rông
Xúm xít, buồn vui, cả cộng đồng
Đình đám bản làng, mong mỏi dạ
Kon Tum non nước, vấn vương lòng
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn